Thơ » Việt Nam » Lý » Chu Văn Thường
昭昭乎妙理湛寂,照物物而物不相侵,蕩蕩乎迥彼真空,納塵塵而塵莫混跡。是亦不謂幽深宏遠哉。
佛之有金色,人之有佛性而不能自覺自悟也。人之欲證者,必資善以證焉。所可參者,莫大於像法。像法之所崇,莫崇於凈剎。故仿優闐阿育之芳蹤,挈摩騰法蘭之遺跡。
今有太尉李公,佐皇越第四帝,授推誠,協謀,保節,守正,佐理,翊戴功臣,守尚書令,開府,欽同三司,入內內侍省,都都知,撿校太尉,兼御史大夫,遙授諸鎮節度使,同中書門下平章事,上柱國,天子義弟,開國上將軍,越國公,食邑一萬戶,食實封四千戶。圖臨大節,言授綴旒。信乎六尺之孤可托,百里之命可寄。厥後乃誓于師,北征鄰國,西討不庭。善七縱七擒之勝敵,非漢有韓彭之功,豈齊有管晏之烈。惟公輔君,國家殷富多歷年,所可垂臣道千古之熙績也。
至壬戌之歲,皇帝特加清化一軍,賜公封邑。群牧嚮風,萬民慕德。正縣西南有山,高而且大,名安獲。所產美石,其石公家之貴物。瑩瑩色如藍玉,青青質擬生煙。然後鑿而為器。其器也,鑿為嚮磬,扣處而萬里流音;用作銘碑,遺文而千齡蓋固。是則太尉李公祇差侍者甲首武承叨一名,領九真鄉人也,搜其山,採其石,十有九年。實踐節操,民就焉,戰戰而若履輕冰,恪勤特盈,己清焉,兢兢而類乘朽索。自省曰:量器微而裁重,本智小而謀大。積塵纖而豈拂,五嶽漸成;注滴水而無休,四溟轉溢。況蒙究錫之踰涯,以何能之報效。賢愚列次,貧富有宜。所見於斯處者,芟夷翠野。草建仁祠,號為報恩之寺也。端偉能仁之相,次列菩薩之容。顏麗雙南,體完繪事。經營於己卯炎天,慶成於庚辰燠景。其屋乃一旦借丹青點綴。百年延氣象芬芳。前依赤帝之方,境列古戰之縣。井分攸耿,緣茂如雲。後聯翔鳳之嵎,旁聳白龍之岫。橫注清流,勢成一帶。左達隅夷之表,之鬲分為之間。遙拂扶桑,敬賓出日。右通昧谷之都,逼鎮堯嶽之巍。夤餞斜暉,隙臨疏牖。門間石甃,雙影特涌尖丘;橋外花香,十里若飄濃麝。
但愚乃學文昧淺,勝事何窮,濫矢蕪詞,以貽銘曰:
空門虛寂,
俗累罕纓。
極微而顯,
至小何輕。
吉凶由己,
禍福易迎。
塵途則背,
善里歸情。
纖塵豈讓,
山嶽漸成。
滴水不棄,
河海相盈。
若能機要,
名器何虧。
賢愚列次,
貧富所宜。
明恩罔極,
何以報之。
強芟翠野,
草建仁祠。
前分井畝,
後白龍嵋。
右通堯岫,
左達嵎夷。
雙丘甃石,
四照芳花。
次列菩薩,
中座釋迦。
體完神繪,
凜烈不磨。
四回勝事,
一境繁華。
募修象法,
永保邦家。
名流今古,
功著邇遐。
【...】
節彼山兮碧龍巔。
彼美石兮尤至堅。
瑩瑩滑兮稟自然。
青青質兮擬生煙。
【...】
蒙皇錫兮十九年。
講法場兮仿優闐。
所庶幾兮聖日遷。
山比壽兮永何騫。
沐慈恩兮福果圓。
【...】
至仁道兮比堯天。
紀于銘兮百代傳。
從脞言兮愧後賢。
Chiêu chiêu hồ diệu lý trạm tịch, chiếu vật vật nhi vật bất tương xâm; đãng đãng hồ quýnh bỉ chân không, nạp trần trần nhi trần mạc hỗn tích. Thị diệc bất vị u thâm hoằng viễn tai!
Phật chi hữu kim sắc, nhân chi hữu phật tính nhi bất năng tự giác tự ngộ dã. Nhân chi dục chứng giả, tất tư thiện dĩ chứng yên. Sở khả tham giả mạc đại ư tượng pháp. Tượng pháp chi sở sùng, mạc sùng ư tịnh sát. Cố phỏng Ưu Điền, A Dục chi phương tung, kiết Ma Đằng, Pháp Lan chi di tích.
Kim hữu Thái uý Lý công, tá Hoàng Việt đệ tứ đế, thụ Suy thành, hiệp mưu, bảo tiết, thủ chính, tá lý, dực đới công thần, thủ thượng thư lệnh, khai phủ, khâm đồng tam ty, nhập nội nội thị sảnh, đô đô tri, kiểm hiệu thái uý kiêm ngự sử đại phu, dao thụ chư trấn tiết độ sứ, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ, khai quốc thượng tướng quân, Việt quốc công, thực ấp nhất vạn hộ, thực thực phong tứ thiên hộ. Đồ lâm đại tiết, ngôn thụ xuyết lưu. Tín hồ lục xích chi cô khả thác; bách lý chi mệnh khả ký. Quyết hậu nãi thệ vu sư, Bắc chinh lân quốc; Tây thảo bất đình. Thiện thất túng thất cầm chi thắng địch. Phi hán hữu Hàn, Bành chi công; khởi tề hữu Quản, Yến chi liệt, Duy công phụ quân, quốc gia ân phú đa lịch niên, sở khả thuỳ thần đạo thiên cổ chi hi tích dã.
Chí Nhâm Tuất chi tuế, hoàng đế đặc gia Thanh Hoá nhất quân, tứ công phong ấp. Quần mục hướng phong; vạn dân mộ đức. Chính huyện tây nam hữu sơn, cao nhi thả đại, danh An Hoạch. Sở sản mỹ thạch. Kỳ thạch công gia chi quý vật. Oánh oánh sắc như lam ngọc; thanh thanh chất nghĩ sinh yên. Nhiên hậu tạc nhi vi khí. Kỳ khí dã, tạc vi hưởng khánh, khấu xứ nhi vạn lý lưu âm; dụng tác minh bi, di văn nhi thiên linh cái cố. Thị tắc Thái uý Lý công chỉ sai thị giả Giáp thủ Vũ Thừa Thao nhất danh, lĩnh Cửu Chân hương nhân dã, sưu kỳ sơn, thái kỳ thạch, thập hữu cửu niên. Thực tiễn tiết tháo, dân tựu yên chiến chiến nhi nhược lý khinh băng; khác cần đặc doanh, kỷ thanh yên, căng căng nhi loại thừa hủ sách. Tự tỉnh viết: lượng khí vi nhi tài trọng, bản trí tiểu nhi mưu đại. Tích trần tiêm nhi khởi phất, ngũ nhạc tiệm thành; chú trích thuỷ nhi vô hưu, tứ minh chuyển dật. Huống mông cứu tích chi du nhai, dĩ hà năng chi báo hiệu. Hiền ngu liệt thứ, bần phú hữu nghi. Sở kiến ư tư xứ giả, sam di thuý dã. Thảo kiến nhân từ, hiệu vi Báo Ân chi tự dã. Đoan vĩ năng nhân chi tướng; thứ liệt Bồ tát chi dung. Nhan lệ song nam, thể hoàn hội sự. Kinh doanh ư Kỷ Mão viêm thiên, khánh thành ư Canh Thìn áo cảnh. Kỳ ốc nãi nhất đán tá đan thanh điểm xuyết. Bách niên diên khí tượng phân phương. Tiền y xích đế chi phương, cảnh liệt Cổ Chiến chi huyện. Tỉnh phân du cảnh, duyên mậu như vân. Hậu liên Tường Phượng chi ngung, bàng tủng Bạch Long chi tụ. Hoành chú thanh lưu, thế thành nhất đới. Tả đạt Ngung Di chi biểu, chi cách phân vi chi gian. Dao phất Phù Tang, kính tân xuất nhật. Hữu thông muội cốc chi đô, bức trấn Nghiêu Nhạc chi nguy. Di tiễn tà huy, khích lâm sơ dũ. Môn gian thạch trứu, song ảnh đặc dũng tiêm khâu; kiều ngoại hoa hương, thập lý nhược phiêu nùng xạ.
Đãn ngu nãi học văn muội thiển, thắng sự hà cùng, lạm thỉ vu từ, dĩ di minh viết:
Không môn hư tịch,
Tục luỵ hãn anh.
Cực vi nhi hiển,
Chí tiểu hà khinh.
Cát hung do kỷ,
Hoạ phúc dị nghinh.
Trần đồ tắc bội,
Thiện lý quy tình.
Tiêm trần khởi nhượng,
Sơn nhạc tiệm thành.
Chích thuỷ bất khí,
Hà hải tương doanh.
Nhược năng cơ yếu,
Danh khí hà khuy.
Hiền ngu liệt thứ,
Bần phú sở nghi.
Minh ân võng cực,
Hà dĩ báo chi.
Cưỡng sam thuý dã,
Thảo kiến nhân từ.
Tiền phân tỉnh mẫu,
Hậu Bạch Long mi.
Hữu thông Nghiêu tụ,
Tả đạt Ngung di.
Song khâu trứu thạch,
Tứ chiếu phương hoa.
Thứ liệt Bồ Tát,
Trung toạ Thích Ca.
Thể hoàn thần hội,
Lẫm liệt bất ma.
Tứ hồi thắng sự,
Nhất cảnh phồn hoa.
Mộ tu tượng pháp,
Vĩnh bảo bang gia.
Danh lưu kim cổ,
Công trứ nhĩ hà.
[...]
Tiết bỉ sơn hề bích long điên,
Bỉ mĩ thạch hề vưu chí kiên.
Oánh oánh hoạt hề bẩm tự nhiên,
Thanh thanh chất hề nghĩ sinh yên.
[...]
Mông hoàng tích hề thập cửu niên.
Giảng pháp trường hề phỏng Ưu Điền,
Sở thứ cơ hề thánh nhật thiên.
Sơn tỉ thọ hề vĩnh hà khiên,
Mộc từ ân hề phúc quả viên.
[...]
Chí nhân đạo hề tỉ Nghiêu thiên,
Kỷ vu minh hề bách đại truyền,
Tòng toả ngôn hề quý hậu hiền.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Chói ngời thay diệu lý, lặng lẽ soi mọi vật mà mọi vật chẳng lấn át nhau. Lồng lộng thay cái chân không vẳng lặng kia, thu nạp mọi cảnh mà chẳng cảnh nào lẫn với cảnh nào. Đó chẳng phải là sâu xa lớn rộng hay sao!
Phật có sắc vàng (như) người ta có Phật tính, nhưng không (mấy ai) tự giác tự ngộ được. Vì vậy, người muốn chứng quả phải nhờ điều thiện để đến nơi chứng quả. Điều đáng tham cứu không gì lớn hơn tượng pháp, mà sùng thượng tượng pháp không gì bằng chùa chiền. Cho nên, bắt chước dấu vết thơm tho của Ưu Điền, A Dục; phỏng theo tung tích sót lại của Ma Đằng, Pháp Lan.
Nay có Thái uý Lý công, giúp vua thứ tư triều Lý, được trao chức: Suy thành, hiệp mưu, bảo tiết thủ chính, tá lý, dực đới công thần, thủ thượng thư lệnh, khai phủ khâm đồng tam ty, nhập nội nội thị sảnh đô đô tri, kiểm hiệu thái uý, kiêm ngự sử đại phu, giao thụ chư trấn tiết độ sứ, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ, khai quốc thượng tướng quân, Việt quốc công, thực ấp một vạn hộ, thực thực phong bốn nghìn hộ. Ông đứng trước tiết lớn, vâng mệnh phù nguy, là người có thể gửi gắm đứa con côi, uỷ thác mệnh lệnh ngoài trăm dặm. Rồi đó ông thề trước ba quân: phía bắc đánh quân Tống xâm lược, phía tây đánh bọn không lại chầu, giỏi thắng địch bằng sách lược bảy lần bắt bảy lần đều thả. Đâu phải riêng nhà Hán có công huân Hàng, Bành, nước Tề có sự nghiệp Quản, Án. Riêng ông giúp vua thì nước nhà giàu thịnh nhiều năm. Đó chính là công tích rực rỡ của đạo làm tôi có thể để lại nghìn đời sau vậy.
Đến năm Nhâm Tuất (1082), nhà vua đặc biệt ban thêm một quận Thanh Hoá cho ông làm phong ấp, châu mục đều ngưỡng mộ phong thanh, muôn dân đều mến đức chính. Ở phía tây nam huyện, có một quả núi lớn và cao gọi là núi An Hoạch, sản xuất nhiều đá đẹp, đó là sản vật quý giá của mọi người. Sắc óng ánh như ngọc lam, chất biếc xanh như khói nhạt. Sau này đục đá làm khí cụ, ví như đẽo thành khánh, đánh lên thì tiếng ngân muôn dặm; dùng làm bia, văn chương để lại thì còn mãi nghìn đời. Thế là Thái uý Lý công sai một thị giả là Giáp thủ Vũ Thừa Thao suất lĩnh người hương Cửu Chân, dò núi tìm đá trong mười chín năm. Tiết tháo được thể nghiệm nên dân quy phụ, vậy mà vẫn luôn luôn dè dặt như đi trên băng mỏng; chăm lo đầy đủ khiến mình trong sạch, thế nhưng vẫn băn khoăn như cưỡi ngựa nắm dây cương sờn. Tự xét mình rằng: lượng khí nhỏ mà quyết đoán việc quan trọng; tài trí hèn mà gánh vác việc lớn lao. Chứa hạt bụi nhỏ mà không chùi, sẽ thành năm núi lớn; rót từng giọt nước mà không nghỉ, sẽ tràn bốn biển khơi. Phương chi lại đội ơn vua ban cho vượt bậc, biết lấy gì báo đền. Cho nên, tất cả những người ở xứ này, hiền ngu lần lượt, giàu nghèo đúng phiên đều san đất dẫy cỏ, dựng một ngôi chùa gọi là chùa Báo Ân. Giữa đặt tượng Phật, dưới đặt tượng Bồ Tát, sắc ánh như vàng, đẹp như tranh vẽ. Chùa này khởi công từ mùa hạ năm Kỷ Mão (1099), đến mùa hạ năm Canh Thìn (1100) thì hoàn thành. Mái tường rực rỡ là nhờ một sớm nét đan thanh điểm xuyết, trăn năm khí tượng, mãi mãi thơm tho. Phía trước hướng về phương Nam, giáp huyện Cổ Chiến, đồng ruộng san sát, xanh tốt như mây. Phía sau liền gò Tường Phượng, bên cạnh vút đồi Bạch Long, dòng sông trong chảy ngang, hình thành một giải. Bên tả thông tới cõi ngung di, trong khoảng giới hạn cách ngăn, xa vén cõi Phù Tang, tiếp đón ánh mặt trời mới mọc. Bên hữu suốt tới đô Muội Cốc, trấn át ngọn núi cao, tiễn ánh tà dương thoáng lướt qua khe cửa. Gò đá cửa ngoài, hai bóng vút cao chóp núi; hoa thơm bên suối, xa xa phảng phất hương nồng.
Tôi học tài thiển lậu, thắng sự nào hay, lạm viết lời quê, để lưu hậu thế. Minh rằng:
Cửa không vắng lặng,
Tục luỵ nào vương.
Nhỏ, nhưng rất nặng,
Kín, vẫn rõ ràng.
Mình gây lành dữ,
Hoạ phúc dễ mang.
Đường trần quay gót,
Xóm thiện bước sang.
Bụi nhỏ tích lại,
Thành ngọn núi vàng.
Giọt nước chứa lại,
Sóng bể mênh mang.
Nếu hay cơ yếu,
Danh, khí trọn đường.
Hiền, ngu lần lượt,
Không kể giàu sang.
Lấy gì báo đáp,
Từ ơn khôn lường.
Dẫy cỏ san đất,
Dựng ngôi Phật đường.
Trước, ruộng ngang dọc,
Sau, Bạch Long cương.
Hữu thông núi thẳm,
Tả tới Phù Tang.
Hai gò núi đá,
Hoa thắm ngát hương.
Dưới tượng Bồ Tát,
Giữa tượng Phật vàng.
Tượng sơn tranh vẽ,
Lẫm liệt khác thường.
Bốn phen việc tốt,
Một cõi huy hoàng.
Tu sửa tượng pháp,
Nhà nước vững vàng.
Tiếng thơm muôn thuở,
Công chói muôn phương.
[...]
Ngọn núi chót vót là ngọn Bích Long,
Đá kia đã đẹp chừ lại thêm bền.
Sắc long lanh chừ tính bẩm tự nhiên,
Chất xanh xanh chừ như khói mới lên.
[...]
Đội ơn vua chừ đã mười chín niên.
Cầu pháp đường chừ bắt chước Ưu Điền,
Ngày thánh ngõ hầu chừ đương độ biến thiên.
Mong thọ như non chừ mãi mãi bình yên,
Tắm từ ân chừ phúc quả vẹn tuyền.
[...]
Đạo chi nhân chừ sánh với Nghiêu thiên.
Ghi bài minh chừ muôn thuở lưu truyền,
Lời quê vụng về chừ thẹn với hậu hiền.