Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Đường luật
Thời kỳ: Nguyễn
5 bài trả lời: 4 bản dịch, 1 thảo luận

Đăng bởi PH@ vào 24/06/2017 17:49, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 24/06/2017 19:48

題陽貴妃祠

故國山河渺夕煙,
巋巋祠廟峙南天。
仇元遺恨波濤壯,
存宋孤貞日月懸。
萬杪風搖環珮響,
一湖秋洗鏡光圜。
慈雲普作千家廕,
乾海靈聲合並傳。

 

Đề Dương quý phi từ

Cố quốc sơn hà, diểu tịch yên,
Khuy khuy từ miếu, trĩ Nam thiên.
Cừu Nguyên di hận, ba đào tráng,
Tồn Tống cô trinh, nhật nguyệt huyền.
Vạn diểu phong dao, hoàn bội hưởng,
Nhất hồ thu tẩy, kính quang viên.
Từ vân phổ tác thiên gia ấm,
Càn Hải linh thanh, hợp tịnh truyền.

 

Dịch nghĩa

Sông núi quê hương mờ trong khói chiều,
Ngôi miếu thờ bà sừng sững đứng giữa cõi trời Nam.
Nỗi hận bọn giặc Nguyên xưa vương trên ngọn sóng lớn,
Tấm lòng trung thành với triều Tống còn mãi với mặt trời mặt trăng.
Muôn cành cây gió lay động, âm vang như tiếng vòng ngọc va chạm,
Một hồ nước thu tẩy rửa, ánh sáng chiếu dọi như chiếc gương tròn.
Mây lành bay khắp nơi, che chở cho hàng nghìn gia đình,
Đền này cùng với đền Cờn sẽ linh thiêng và truyền lại lâu dài.


Bài thơ này được treo tại gian giữa của cung trung từ của đền Dương quý phi (hay Dương thiên hậu), vợ vua Tống Độ Tông, là thái hậu thời Tống Đoan Tông và Đế Bính. Khi bà đi lánh nạn sau khi nhà Tống bị nhà Nguyên tiêu diệt đã tự vẫn hoặc đắm thuyền, dạt về cửa biển Cờn Hải ở Nghệ An, được dân địa phương chôn cất và lập đền thờ. Dân ven biển miền nam Trung Quốc cũng suy tôn bà là thần hộ mệnh cho những người đi biển, những thương nhân người Hoa đến Hưng Yên (Phố Hiến) buôn bán, lập nghiệp đã cho dựng đền này để thờ bà ở đây. Đây là một trong những di tích lịch sử văn hoá lâu đời vùng đất Phố Hiến xưa và thành phố Hưng Yên nay.

Lạc khoản: “Nhâm Thìn khoa tiến sĩ, Quang lộc tự Thiếu khanh lãnh Hưng Yên tỉnh Án sát sứ Chu Mạnh Trinh bái phụng, tịnh thư. Thành Thái Bính Thân, thu mạnh.” 任辰科進士光祿寺少卿領興安省按察使朱孟楨拜奉並書。成泰丙申秋孟。 (Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1892), giữ chức Quang lộc tự Thiếu khanh, lãnh Án sát sứ tỉnh Hưng Yên là Chu Mạnh Trinh cung kính soạn và viết chữ. Tháng mạnh thu (tháng 7 âm lịch), năm Bính Thân (1896) niên hiệu Thành Thái.)


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Cố quốc non sông khói chiều lan
Sừng sững miếu đền giữa trời Nam
Thù Nguyên còn hận trào sóng cả
Thờ Tống lòng trinh ánh dương tràn
Vạn ngọn gió lay vang tiếng ngọc
Một hồ gương rửa nước thu làn
Mây lành giăng khắp che ngàn hộ
Càn Hải tiếng thiêng hợp truyền vang.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Khánh Hiền

Nước cũ non sông ngợp khói chiều,
Trời Nam đền miếu dựng cheo leo.
Lòng trinh thờ Tống vầng dương tỏ,
Nỗi hận thù Nguyên sóng bạc reo.
Cành biếc gió rung truyền réo rắt,
Gương hồ thu đến rửa trong veo.
Mây lành toả ấm nhà muôn nóc,
Càn Hải đền thiêng tiếng vẫn nêu.


Bài dịch thơ này do cử nhân văn hoá Lương Khánh Hiền, cán bộ Phòng quản lý di tích Văn miếu Xích Đằng (Hưng Yên) cung cấp. PGS.TS. Nguyễn Minh Tưởng đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 2(81), 2007 và sửa chữ “cửa ngọc” ở câu 5 thành “cành biếc”.
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Nhầm chữ

Chữ Tống/宋 bị nhầm là chữ Vinh/榮 xin sửa.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Cổ Hoan

Non sông cố quốc khói sương chiều,
Trời Nam toà miếu sững cô liêu.
Thù Nguyên còn hận cơn sóng cả,
Giúp Tống lòng trinh nhật nguyệt treo.
Gió lay cành ngọc rung xào xạc,
Hồ thu tẩy sạch kính trong veo.
Mây lành phủ khắp muôn nhà ấm,
Cờn hải đền thiêng cũng tiếng nêu.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Sông núi quê hương mờ khói chiều,
Trời Nam sừng sững miếu cô liêu.
Hận giặc Nguyên xưa vương sóng cả,
Lòng trung Tống thất nhật nguyệt nêu.
Gió lay cây động, âm ngọc chạm,
Hồ thu sáng dọi nước gương treo.
Mây lành che chở nhà muôn nóc,
Cờn Hải đền thiêng tiếng mãi nêu.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời