Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Chế Lan Viên » Ánh sáng và phù sa (1960)
Đăng bởi Vanachi vào 24/06/2005 18:02, đã sửa 4 lần, lần cuối bởi karizebato vào 28/06/2009 02:35
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu
Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia
Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân
Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại mẹ yêu thương
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con
Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chi là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương
Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga
Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao
Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta
Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân
Trang trong tổng số 1 trang (9 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Bạc Thanh Truyền ngày 17/07/2009 14:17
Có 1 người thích
Một trong những thành công nổi bật của bài thơ Tiếng hát con tàu là nghệ thuật sáng tạo hình ảnh. Có những hình ảnh được xây dựng theo thủ pháp tả thực, song tiêu biểu là những hình ảnh – biểu tượng chứa đựng những khái quát triết lí sâu sắc, thể hiện chất riêng của phong cách thơ Chế Lan Viên.
Trong dòng hồi nhớ, những hình ảnh tả thực gắn liền với những kỉ niệm kháng chiến, là hình bóng của con người và thiên nhiên Tây Bắc đã in sâu trong kí ức nhà thơ: Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn; Lửa hồng soi tóc bạc; bản sương giăng, đèo mây phủ; Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng,… Như thế, kỉ niệm đã hiện hình bằng những chi tiết xác thực.
Ngay nhan đề của bài thơ đã là một hình ảnh biểu tượng: Tiếng hát con tàu. Biểu tượng về khát vọng và niềm hân hoan lên đường này có cơ sở từ thực tế: những năm 1958 – 1960 có một cuộc vận động lên Tây Bắc xây dựng kinh tế miền núi. Chỉ có điều là vào thời điểm ấy chưa hề có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc. Cho nên, Tây Bắc ở đây không chỉ dừng lại ở ý nghĩa một địa danh cụ thể mà nó còn có ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống của nhân dân, là mảnh đất lớn chứa đựng nhiều hứa hẹn, nơi khởi nguồn của mọi cảm hứng nghệ thuật chân chính. Chúng ta còn bắt gặp nhiều hình ảnh được xây dựng theo phương thức ẩn dụ như thế trong suốt bài thơ: gió ngàn đang rú gọi; vầng trâng; trái đầu xuân; Mẹ yêu thương; Mùa nhân dân giăng lúa chín; mẹ của hồn thơ; vàng ta đau trong lửa; Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân,… Những hình ảnh biểu tượng kích thích trí tưởng tượng, suy ngẫm của người đọc để tạo ra những liên tưởng sâu xa, bất ngờ. Bên cạnh đó, người đọc còn thấy hàng loạt các hình ảnh so sánh độc đáo: ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa – Mười năm sau còn đủ sức soi đường; Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ – cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa – Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa – Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa; Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét – Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,… Những hình ảnh so sánh sinh động, liên tiếp, trùng điệp như thế có tác dụng trực tiếp thể hiện, cụ thể hoá những ý nghĩa vốn trừu tượng: ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Pháp đối với sự sống nhân dân nói chung, người nghệ sĩ nói riêng; mối quan hệ khăng khít, máu thịt giữa nghệ thuật với cuộc sống nhân dân, đất nước; nỗi nhớ, tình yêu,…
Qua Tiếng hát con tàu, có thể khẳng định: sức mạnh lay động của thơ Chế Lan Viên chính là nghệ thuật sống tạo hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.
Gửi bởi vũ khúc của lửa ngày 29/09/2009 08:58
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi vũ khúc của lửa ngày 29/09/2009 09:33
Tiếng hát con tàu là một dấu mốc cho thấy hành trình “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui” của hồn thơ Chế Lan Viên. Ra đời trong những năm tháng ở miền đang hồ hởi với công cuộc dựng xây cuộc sống mới, bài thơ thể hiện khát vọng hoà nhập của thơ ca, nghệ thuật, xúc cảm ở người nghệ sĩ với cuộc sống rộng lớn đang rộn ràng nơi ấy. Cảm hứng này thể hiện rõ trong khổ thơ:
Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?Người nghệ sĩ đã tìm thấy sự đồng vọng trong tiếng gọi của đất nước, của nhân dân. Tiếng gọi của đất nước, nhân dân ngoài kia đã trở thành tiếng lòng thôi thúc: “Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi”. Ý nguyện lên đường, hoà vào cuộc sống mới được khẳng định dưới hình thức câu hỏi tu từ. Tự giác như thế, nhà thơ đồng thời cũng cảm nhận thấy rõ sự mong đợi, ngóng chờ của đất nước, nhân dân đối với nhiệt huyết của mình: Tình em đang mong, tình mẹ đứng chờ. “Tình em”, “tình mẹ” ở đây vừa là tình nghĩa của những con người cụ thể đã được nhà thơ nhắc đến ở phần trước bài thơ, vừa là hình ảnh mang ý nghĩa khái quát về nhân dân, những tình cảm của cuộc sống mới.
Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ dùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.
Gửi bởi gochit ngày 24/10/2009 09:45
Bài thơ Tiếng hát con tàu rút từ tập Ánh sáng và phù sa (1960) là một bài thơ xuất sắc thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của Chế Lan Viên. Những năm 60, Đảng và Nhà nước mở cuộc vận động bà con miền xuôi lên miền ngược xây dựng quê hương mới. Và Tây Bắc, mảnh đất lịch sử còn vang dội dư âm chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu là mảnh đất hứa hẹn một tương lai tươi sáng. Hưởng ứng cuộc vận động này, đội ngũ văn nghệ sĩ cũng lên đường đến những miền đất mới để khơi nguồn sáng tác. Bài thơ ra đời trong bối cảnh văn hoá xã hội ấy, nhưng nội dung của nó không dừng lại ở việc phản ánh quá trình đi tìm nguồn cảm hứng cho nghệ thuật mà sâu sắc hơn, bài thơ đã thể hiện bước chuyển đổi hoàn toàn tư tưởng thơ của chính nhà thơ.
Với giọng điệu trữ tình mang đậm màu sắc triết luận và suy tưởng, hai khổ thơ đầu tác giả thể hiện khát vọng ra đi để tìm nguồn cảm hứng sáng tạo. Hình ảnh thơ mang ý nghĩa biểu tượng. Bảy khổ thơ tiếp theo thể hiện cảm xúc về Tây Bắc, mảnh đất anh hùng. Đây là đoạn thơ thành công nhất trong bài thơ, thể hiện một cách đầy xúc động tình cảm gắn bó của nhân vật trữ tình với con người và mảnh đất thiêng Tây Bắc. Đồng thời thể hiện khát vọng được trở về với nhân dân, bởi đó là ngọn nguồn bất tận của mọi sáng tạo. Từ “Anh bỗng nhớ em như đông về…” đến “Mặt đất nồng nhựa sống của cần lao”: Cảm xúc mang màu sắc triết luận. Tác giả đã đưa ra triết lí mang tính quy luật của tình cảm “Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”. Hai khổ thơ cuối cùng: Triết luận về sán tạo nghệ thuật, suy tưởng về cuộc kháng chiến của dân tộc.
Bài thơ thể hiện khá rõ những nét tiêu biểu trong phong cách thơ Chế Lan Viên: Sau chất suy tưởng và triết lí, hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm và mang nhiều ý nghĩa biểu tượng.
Gửi bởi Bulldozer ngày 14/01/2010 08:30
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!
Đất ko chỉ là đất đơn thuần mà "đất nơi mình ở" trong bài này dường như muốn nói đến 1 điều # sâu lắng hơn: Những nơi tác giả đi qua đều là đất quê hương, đều mang 1 cái dư vị đặc trưng, quen thuộc của quê hương Việt Nam. Đất dù ở đâu cũng là đất Việt Nam, quê hương Việt Nam thân yêu. Cũng giống như bao người khác, khi ta ở trên quê hương ta thấy nó rất đỗi bình thường nhưng khi xa quê hương ta thường cảm thấy thiếu 1 cái j đó trong tâm hồn vì bỗng dưng mình phải rời xa những thứ mình quen thuộc => Nhớ và biết yêu thương, trân trọng nó hơn. 1 dẫn chứng nữa của câu "Có thể tách rời con người ra khỏi quê hương nhưng ko thể tách rời quê hương ra khỏi con người".
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/03/2015 10:50
Trước hết cần phải thấy rằng đây không phải là bài thơ ra đời ngẫu nhiên do tư biện về con tàu và Tây Bắc. Theo Hà Minh Đức trong Nhà văn nói về tác phẩm, khi ấy Chế Lan Viên đau yếu, không đi đâu được. Trong khi các bạn đồng nghiệp đi thực tế ở nhiều nơi. Bài thơ được viết ra như là để tự an ủi mình, nhan đề đầu tiên của nó là Con tàu Tây Bắc.
Bốn câu đề từ cho thấy cách suy nghĩ hợp lí của Chế Lan Viên:
Tày Bắc ư? Có riêng gì Tây BắcNhư vậy Tây Bắc chỉ là một địa danh, là một miền đất mà nhà thơ cần đi tới. Nhưng có nhất thiết phải tới không, phải đi bằng một chuyến tàu khách hành từ Hà Nội hay không? Khi mà lòng nhà thơ đã hoá những con tàu? Khi mà tiếng hát từ bốn bề đang phơi phới. Nhà thơ cho rằng như thế, Tây Bắc đã ở trong hồn minh.
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi tổ quốc bốn bề lèn tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà NộiThế là nhà thơ đi Tây Bắc bằng con đường riêng, bằng con tàu tâm tưởng. Bởi nếu lòng đóng khép thì sẽ chẳng có thơ đâu.
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/03/2015 10:50
Đối với thi sĩ lãng mạn tiểu tư sản trước cách mạng đã từng chìm đắm trong cái tôi cô đơn, bé nhỏ, bế tắc, nay được trở về cái “ta”, với nhân dân, đất nước là một nỗi niềm khát khao, một niềm hạnh phúc lớn lao. Để diễn tả niềm hạnh phúc, niềm vui ấy. Chế Lan Viên đã viết nên một đoạn thơ thật chân thực, xúc động và rất hấp dẫn:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ….Đoạn thơ trên trích trong bài Tiếng hát con tàu, một bài thơ chín nhất của Chế Lan Viên rút từ tập Ánh sáng và phù sa sáng tác năm 1960.
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi
Con gặp lại… bỗng gặp cánh tay đưaNhững hình ảnh so sánh trên nhằm để diễn đạt tình cảm và có tác dụng khơi sâu, mở rộng, khám phá thêm ý nghĩa của sự việc, hành động được trở về với nhân dân, cội nguồn sáng tạo nghệ thuật thơ ca. Những hình ảnh này đều lấy từ đời sống tự nhiên và con người. Nhưng chính vì thế, chúng thật gần gũi, giản dị mà không kém phần thơ mộng, đẹp đẽ, gợi cảm. Về với nhân dân là về với những gì phù hợp với quy luật sống và tự nhiên.
Mùa xuân đó, con chim én mớiĐược trở về với nhân dân, đối với Chế Lan Viên còn là về với ngọn nguồn thiết yếu của cuộc sống, của sự nuôi dưỡng chở che và làm hồi sinh sự sống. “Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa… bỗng gặp cánh tay đưa”. Sữa là nguồn dinh dưỡng cơ bản giúp cho đứa trẻ sống dậy, khoẻ mạnh, lớn khôn. Cánh tay đưa nôi giúp cho đứa trẻ thơ ngon giấc nồng để càng trưởng thành hơn cùng với những dòng sữa ngọt ngào. Hình ảnh thơ làm người ta nhớ đến hình ảnh những em bé rơi vào cảnh ngộ éo le đầy hiểm nghèo trong truyện cổ tích. Khi sự sống đang bị đe doạ như ngàn cân treo đầu sợi tóc giữa rừng vắng thì bỗng gặp bàn tay dịu hiền và rất mực nhân hậu của nhũng ông bụt, bà tiên kịp thời đến tiếp sữa đưa nôi làm cho bé sống lại, lớn cao thành chàng dũng sĩ hay hoàng tử sau này. Như vậy, niềm biết ơn nhân dân của chàng thi sĩ từng khóc “Những Tháp Chàm loang lổ”, đã từng:
Rộn đồng chiêm chấp chới trời xanh
Đừng quên nỗi chua cay một thời ấyGiờ đây đã trở thành niềm biết ơn đối với những người đã cứu mệnh, tái tạo cuộc đời mình.
Tổ quốc trong lòng có cũng như không
Nhân dân ở quanh ta mà chẳng thấy
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng
Con nhớ anh con… cho em“Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách” mà “anh du kích”, “mặc đêm đông còn ấy”, xét về giá trị vật chất thì chẳng đáng giá là bao, nhưng “Đêm cuối cùng, anh cởi lại cho con” thì về ý nghĩa tinh thần, chiếc áo đó bỗng trở nên vô giá. Bởi của chẳng đáng bao nhiêu nhưng tình thì rất nặng. Đây không còn thuần tuý là trao chiếc áo cho nhau mà đó chính là trao lại sự sống cho nhau. Thật cảm động biết bao! Trong cuộc cách mạng đầy hi sinh gian khổ, đã xuất hiện biết bao con người có tấm lòng vàng như thế.
Chú bé loắt choắtCông việc liên lạc và đưa thư trong những ngày kháng chiến ở Việt Bắc là một công việc vô cùng gian khổ và cực kì nguy hiểm. Vì phải qua nhiều vòng vây của kẻ thù, phải vượt qua biết bao “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”. Nghĩa là mỗi bức thư đều thấm máu và nước mắt, ấy thế mà “Mười năm tròn chưa mất một phong thư cảm động biết bao và cũng tự hào biết bao! Những em bé ấy rất xứng đáng được tất cả chúng ta cất tiếng chào kính trọng và cảm phục:
Cái xắc xinh xinh…
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng
Chào em dũng sĩ mười lămTiêu biểu nhất cho những con người bình dị mà có tấm lòng vàng ấy phải kể đến những bà mẹ tuy tuổi già sức yếu nhưng vẫn dành chút hơi tàn của mình để chăm sóc cho những người cán bộ đau yếu như chăm sóc cho con đẻ của mình vậy:
Tuổi thơ mà đã ngang tầm nước non
(Tố Hữu)
Con nhớ mế… nhớ mãi ơn nuôiCon nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc? Hình ảnh thơ thật đến từng chi tiết nhỏ, mà lại giàu sức gợi tả. Hình ảnh “lửa hồng” đối lập với hình ảnh mái “tóc bạc” đã tạo nên một bức tranh thật nên thơ. Hình ảnh vừa cụ thể vừa có ý nghĩa tượng trưng khái quát sâu xa. “Lửa hồng” đó là cái hồng của ngọn lửa hay cái rực hồng của trái tim mẹ đã sưởi ấm cho biết bao cán bộ cách mạng trong những đêm đông giá rét ở Việt Bắc? Ngọn lửa hồng ấy đã “soi” tỏ mái tóc bạc của mế làm cho mái tóc như bạc thêm ra. Tóc của mế bạc trắng vì thời gian, tuổi già nua, vì đói khổ hay còn bạc trắng vì phải “thức cả một mùa dài” “năm con đau? Con với mế không phải “hòn máu cắt” nghĩa là không phải dứt ruột đẻ ra mà mế chăm sóc tận tuỵ chu đáo không khác gì người mẹ đẻ. Biết bao tình cảm yêu thương, ân nghĩa, lòng biết ơn và sự cảm phục của tác giả được chứa đựng trong “hòn” “máu” “cắt” ấy. Vì thế nên “trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
Bao bà cụ từ tâm làm mẹĐúng như nhà thơ Dương Hương Ly đã từng viết “Đất nước quê ta mênh mông, Lòng mẹ rộng vô cùng”. Đó cùng là nguồn gốc của mọi sức mạnh Việt Nam:
Yêu quý con như đẻ con ra
Cho con nào bánh, nào quà
Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi
(Tố Hữu)
Nơi hầm tối là nơi sáng nhấtNhững bà mẹ có trái tim “như ngọc sáng ngời” đã sinh thành và tái tạo lần thứ hai cho cuộc đời biết bao người cán bộ, chiến sĩ. Trong đó có nhà thơ Chế Lan Viên.
Nơi con nhìn ra sức mạnh Việt Nam
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/03/2015 10:51
Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủBài làm
Nơi nao qua, lòng chẳng lại yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
Nhớ bản sương giăng, nhớ con đèo mây phủNhững năm người nghệ sĩ kháng chiến cùng nhân dân Tây Bắc tiến hành cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại là những năm tháng vô cùng gian khổ, hy sinh, nhưng cũng sâu nặng nghĩa tình và không thể nào quên. Cho nên giữa những ngày đất nước rộn ràng không khí xây dựng, sống giữa thủ đô hoa lệ, hồi tưởng về Tây Bắc, nhà thơ vẫn cảm thấy nhớ da diết một bản làng “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ”. Tiểu đối “bản sương giăng” với “đeo mây phủ”, cùng với điệp từ “nhớ” đã tô đậm cảm xúc ấy. Như thế là chỉ bằng một hình ảnh mà tác giả đã làm sống dậy được một vùng quê Tây Bắc xa xôi với “bản sương giăng, đèo mây phủ”. Tây Bắc hiện lên trong câu thơ Chế Lan Viên thật đẹp, một vẻ đẹp huyền ảo, có cái gì đó heo hút mà vẫn kỳ vĩ rất tiêu biểu cho vẻ đẹp núi rừng miền Tây. Phải quen thuộc và gắn bó nhiều với Tây Bắc mới tạo ra được một hình ảnh thơ đơn sơ mà gợi cảm và đúng đến thế! – Một hình ảnh gợi lại một miền đất xa xôi ẩn hiện trong sương mờ mây núi và cùng là trong sương khói của hoài niệm mà đã làm khơi dậy trong tâm hồn ta biết bao hình ảnh thân thiết của những bản làng Tây Bắc, những tình cảm thắm thiết nghĩa tình của những con người chất phác bình dị và cả một mạch thơ về tình quân dân, tình đồng bào trong những năm kháng chiến chống Pháp như Nhớ của Hồng Nguyên, Bao giờ trở lại của Hoàng Trung Thông, Việt Bắc của Tố Hữu:...
Nơi nao qua, lòng chẳng lại yếu thương?
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
Nhớ từng bản khói cùng sương“Bản sương giăng, đèo mây phủ” thường gợi lên những gian khổ của những ngày kháng chiến và thường dễ gợi nỗi buồn cho con người. Nhưng bằng một tấm lòng gắn bó thiết tha với đất nước, với nhân dân, những người mà nhà thơ “trọn đời nhớ mãi ơn nuôi” thì những nơi đó bỗng trở thành niềm thương nỗi nhớ của trái tim tác giả. Và tác giả càng thấm thía một điều dường như đã trở thành chân lý trái tim “nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?”. Câu hỏi tu từ thật nhẹ nhàng tha thiết hỏi đấy mà nào cần ai phải trả lời. Bởi bản thân câu thơ đã chứa đựng cả câu trả lời rồi. Câu thơ Chế Lan Viên mang nặng tính chất khái quát và rất giàu tính chất triết lý. Nhưng triết lý mà không khô khan. Vì đó còn là những ý thơ được cất lên từ những xúc động lắng nghe của chính lòng mình thông qua sự trải nghiệm của cuộc sống để rút ra quy luật phố biến của đời sống trái tim con người.
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ởNgười đọc dễ nhận ra những hình ảnh đối lập để nhấn mạnh ý mà ta thường gặp trong thơ Chế Lan Viên. Ở đây là sự đối lập giữa “ở” và “đi”, giữa “đất” và “tâm hồn”, nghĩa là giữa cái hữu hình ngoài ta và cái vô hình bên trong sâu thẳm. Con người ta thường vẫn vậy, vẫn chỉ yêu chỉ quý và cảm thấy hối tiếc hơn những cái quý giá đã xa mình “Gần nhau cảm thấy bình thường, Xa nhau cảm thấy tình thương dạt dào” (Ca dao). Ở đây Chế Lan Viên đã nâng hình ảnh “đất”, một vật vô tri vô giác thành một hình ảnh sống động là “tâm hồn”, biết nhớ biết thương rất đỗi thiêng liêng cao đẹp. Thật là một hình ảnh bất ngờ đầy sáng tạo có chiều sâu triết lý mà lắng đọng cảm xúc. Xuân Diệu trong bài thơ về Tuyên viết cùng thời với bài thơ Chế Lan Viên cũng đã chứng thực cái triết lý ấy qua những vần thơ rất Xuân Diệu:
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn.
Đất nước ơi, ta quyện với mình chật lắmVà Xuân Quỳnh trong bài thơ Gió Lào cát trắng cũng đã có những câu thơ rất hay:
Nên đi rồi lòng không thể gỡ ra
Tuyên Quang! Tuyên Quang, đâu là mình đất thắm
Và phần nào là hồn thần của ta?
(1-1960)
Em mới về em chưa thấy gì đâuỞ khổ thơ tiếp theo, mạch thơ dường như đột ngột chuyển sang một rung cảm và suy tưởng khác. Đó là tình yêu và đất lạ:
Chỉ có cát và gió Lào quạt lửa
Ngọn gió bỏng khi đi thành nỗi nhớ
Cát khô cằn ở mãi hoá yêu thương.
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rétTình yêu là một đề tài khá quen thuộc. Nhưng viết về nó, bằng những câu thơ trên Chế Lan Viên vẫn có cách nói độc đáo và hấp dẫn. Nói về tình yêu và nỗi nhớ, tác giả đã có cách so sánh thật mới lạ và thú vị. Ta lại bắt gặp một nét quen thuộc rất dễ nhận ra của phong cách Chế Lan Viên: Những hình ảnh thơ giàu chất trí tuệ, triết lý qua sự chiêm nghiệm của cuộc đời mà chất chứa cảm xúc như thể tiếng lòng bật lên từ một trái tim đang nồng nàn nỗi nhớ.
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/03/2015 10:52
Bình giảng 4 câu thơ đề từ trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên:
Tây Bắc? Có riêng gì Tây BắcBài làm
Khi lòng ta dã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?
Tày Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.Những câu thơ “đề từ” thường có ý nghĩa đặc biệt đối với một tác phẩm văn học. Nó nêu rõ ý đồ nghệ thuật và khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho tác giả. Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ Tràng Giang của Huy Cận, một bài thơ mang đậm cảm xúc không gian, vũ trụ, đất nước đã được đề từ bằng câu thơ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?
Đi ta đi! Khai phá rừng hoang.Và một khi nhà thơ – người nghệ sĩ – công dân đã cảm nhận hết được tình yêu và trách nhiệm của mình là phải đóng góp vào sự nghiệp xây dựng kiến thiết Tổ quốc bằng những sáng tác nghệ thuật “miêu tả chân thật và hùng hồn cuộc sống mới, con người mới”, thì lúc đó tâm hồn nhà thơ đã “hoá nhũng con tàu” náo nức trong hành trình về Tây Bắc, về với đất nước, về với cuộc sống dựng xây cần lao và anh dũng của nhân dân. Cuộc sống xây dựng cần lao và anh dũng ấy là ngọn nguồn của mọi sáng tạo nghệ thuật thơ ca. Ở đây nhà thơ đã khẳng định vai trò của hiện thực khách quan đối với nghệ thuật. Một nhà văn hiện thực Nga thế kỷ 19 đã khẳng định “cái đẹp là cuộc sống”. Hiện thực đời sống là nguồn cảm hứng vô tận cho sáng tác, là đối tượng, là chất liệu; từ đó làm nên các sáng tác văn nghệ:
Hỏi núi non cao đau sắt đau vàng?
... Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy...
Hồng Quảng, Lào Cai, Thái Nguyên, Việt Trì
Tên Đất nước reo vui bao tiếng gọi...
Bài thơ anh, anh làm một nửa thôi“Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vãi, hãy nhặt những chữ của đời mà góp lên trang” Nhưng nghệ thuật không phải tự dưng đến với nhà thơ nghệ sĩ. Nó chỉ có thể nảy sinh, khi nghệ sĩ chân thành đón nhận và hoà nhập với cuộc đời.
Còn một nửa cho mùa thu làm lấy
Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá
Nó không là anh, nhưng nó là mùa
(Chế Lan Viên)
Đừng quên nỗi chua cay một thời thơ ấyCòn giờ đây hồn thơ ông đã “thoát khỏi phòng nhỏ bé”, “lượn trăm vòng trên Tổ quốc mênh mông”, thì hình ảnh cuộc đời, đất nước mới được tượng hình trong thơ ông:
Tổ quốc trong lòng có cũng như không
Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng.
Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào.Như vậy là nhà thơ đã ý thức được một cách rõ ràng vai trò quyết định của hiện thực đời sống, song cũng không hề coi nhẹ vai trò của chủ thể sáng tạo của người nghệ sĩ. Sáng tạo nghệ thuật chân chính bao giờ cũng xuất phát từ một thôi thúc của nội tâm, từ khát vọng của nhà văn muốn thế hiện trong tác phẩm những tâm tư, tình cảm, cá tính, phong cách của mình. Lao động nghệ thuật mang tính đặc thù so với một số ngành lao động khác. Nó đòi hỏi phải có ngọn lửa từ bên trong, phải có sự thôi thúc của nội tâm. Vì thế những câu thơ tưởng như có sự trái ngược, mâu thuẫn “lòng ta đã hoá những con tàu” rồi “tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”. Những câu thơ ấy rất hợp lý thống nhất một cách chặt chẽ trong quy luật tư tưởng và sáng tạo nghệ thuật. Đúng là chủ thể và khách thể, ngoại cảnh và nội tâm, hướng ngoại và hướng nội. Tất cả đều có thế tìm thấy sự hoà hợp thống nhất trong hình ảnh thơ giản dị mà rất sâu sắc của Chế Lan Viên. Câu thơ của ông cất lên như một sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước một phát hiện về chân lý sáng tạo nghệ thuật... Còn câu thơ “Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát”, chỉ có mấy chữ nhưng đã tái hiện được một cách khá chân thực và sinh động hiện thực cuộc sống xây dựng lúc bấy giờ. Có riêng gì Tây Bắc mới náo nức không khí xây dựng mà cả miền Bắc lúc bấy giờ đều lên tiếng hát xây dựng. Ở nơi này là “Lúa chín rì rào”; ở nơi kia là “ngói đỏ trăm ga”, đâu đâu cũng “mặt đất nồng nhựa nóng cần lao”.
Thấy trời núi nghìn sông diễm lệ
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/03/2015 10:52
Đề bài: Hãy dựa vào nội dung bài thơ Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên) để giải thích ý nghĩa nhan đề đó của bài thơ. Bình giảng khổ thơ được làm đề từ cho bài thơ:
Tây Bắc ư? có riềng gì Tây BắcBài làm
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?
Xe chạy nghiêng nghiêng trèo dốc núiĐó cũng là một hiện thực khơi nguồn cảm hứng cho Chế Lan Viên viết Tiếng hát con tàu.
Lên miền Tây vời vợi nghìn trùng
Ôi miền Tày dưới xuôi sao nghe nói ngại ngùng
Mà lúc ra đi lửa trong lòng vẫn cháy
Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
Dầu xa xôi gấp mấy cũng lên đường
Sống ở Thủ đỗ mà dạ để mười phương
Nghìn khát vọng chồng chất mơ ước lớn.
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹpVì vậy khi được gặp “ánh sáng của tư tưởng” và “phù sa của cuộc đời”, ông cảm thấy mình như được cứu thoát “Từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”. Và từ đấy, trong tâm hồn Chế Lan Viên luôn luôn trăn trở, phấn đấu “Muốn phá cô đơn hoà hợp với người”; muốn hoà cái “Tôi” nhỏ bé với cái “Ta” cao rộng, muốn hướng nghệ thuật chân chính về với cuộc đời rộng lớn. Giờ phút bừng sáng ấy đối với Chế Lan Viên có ý nghĩa như một sự giác ngộ chân lý, giác ngộ một lẽ sống lớn. Nếu như giờ phút ấy đã biến tâm hồn Tố Hữu thành “một vườn hoa lá rất đậm hương và rộn tiếng chim”, thì nó đã biến hồn thơ Chế Lan Viên thành con tàu tâm tưởng tràn đầy khát vọng, đang háo hức lên đường và muốn mở hết tốc lực trong hành trình đến với nhân dân, với đất nước.
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yến rủ bóng xuống tầm hồn