Có một người:
Khổ dạng trâm anh;
Nết na chương phủ.

Hoi miệng sữa tuổi còn giọt máu, nét hào hoa chừng ná Tân, Dương!
Chòm tóc xanh vừa chấm ngang vai, lời khí khái hẹn hò Y, Phó.

Nghiêng gợn sóng vẽ vời điển tịch, nét nhạn điểm lăn tăn!
Bút vén mây dìu dặt văn chương, vòng thuyền khuyên lỗ chỗ.

Nghiêng cánh nhạn tếch mái rừng Nhan, Khổng, chí xông pha nào quản chông gai!
Cựa đuôi kình toan vượt bể Trình, Chu, tài bay nhẩy ngại gì lao khổ!

Lắc bầu rượu dốc nghiêng non nước lại, chén tiếu đàm mời mọc Trích Tiên;
Hóng túi thơ nong hết gió trăng vào, cơn xướng hoạ thì thầm Lão Đỗ.

Tươi nét mặt thư sinh lồ lộ, bưng mặt trần toan đạp cửa phù đồ;
Rửa buồng gan du tử nhơn nhơn, giương tay Tạo rắp xoay cơn khí số.

Tưởng đến khi vinh hiển coi thường;
Song nghĩ lại trần ai đếch chỗ.

Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướp tướp, ngày thê lương hạt nặng giọt mưa sa;
Đèn cỏn con co chiếc chiếu loi thoi, đêm tịch mịch soi chung vừng trăng tỏ.

Áo Trọng Do bạc phếch, giãi xuân thu cho đượm sắc cần lao;
Cơm Phiếu Mẫu hẩm sì, đòi tuế nguyệt phải ngậm mùi tân khổ.

Gió trăng rơi rụng, để cái quyên gầy;
Sương tuyết hắt hiu, làm con nhạn võ.

Túi thanh bạch ngược xuôi miền khách địa, trăm nghìn đường chỉ nhện dệt thưa mau;
Đèn toan hàn thức nhắp mái nam song, dăm ba ngọn lửa huỳnh khêu nho nhỏ.

Miệng châu quế rì rầm học vấn, chị chú Tô cẳn nhẳn chỉ hiểm nghèo;
Vai tân sài đủng đỉnh ngâm nga, vợ anh Mãi băn khoăn từng kể khó.

Đói rau rừng, thấy thóc Chu mà trả, đá Thú Dương chơm chởm, xanh mắt Di nằm tót gáy o o;
Khát nước sông, trông dòng đục không vơ, phao Vị Thuỷ lênh đênh, bạc đầu ngồi dai ho lụ khụ.

Trông ra nhấp nhố sóng nhân tình;
Ngoảnh lại vật vờ mây thế cố.

Ngán nhẽ kẻ tham bề khoá lợi, mũ cánh chuồn đội trên mái tóc, nghiêng mình đứng chực cửa hầu môn;
Quản bao người mang cái giàm danh, áo giới lân trùm dưới cơ phu, mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ.

Khéo ứng thù những đám quan trên;
Xin bái ngảnh cùng anh phường phố.

Khét mùi thế vị chẳng thà không!
Thơm nức phương danh nên mới khổ.

Tình uốn éo muốn vạch trời lên hỏi, nào kiếp Chử Đồng đâu tá, nỡ hoài chén ngọc để trần ai;
Trí lăng nhăng toan vượt bể đi tu, hỏi quê Tiên tử nơi mô, xin lĩnh lấy vân đan làm tế độ.

Bài phú Dương Hùng dù nghiệm tá, thì xin tống bần quỷ ra đến miền Đông Hải, để ta đeo vòng thư kiếm, quyết xoay bạch ốc lại lâu đài;
Câu văn Hàn Dũ phỏng thiêng chăng, thì xin tống cùng thần ra đến đất Côn Lôn, để ta gánh vác giang sơn, quyết ném thanh khâm sang cẩm tú.

Nhọc nhằn cơn nhục, mát cơn vinh;
Cay đắng lúc cùng, bùi lúc phú.

Vậy có lời nôm dặn bảo thế gian rằng:
Đừng thấy người bạch diện thư sinh;
Mà cười rằng “đa cùng tài tử”.


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]