留院踰月聞得再發沱曩是夜同武懷甫痛飲

此生歸路轉悠悠,
老去文章不自謀。
逐客已安樵子脚,
詩翁仍是配軍頭。
香橋風雨難為夜,
沱汛雲山漸覺秋。
他日愁心待君寄,
五溪明月夜郎舟。

 

Lưu viện du nguyệt văn đắc tái phát Đà Nẵng, thị dạ đồng Vũ Hoài Phủ thống ẩm

Thử sinh quy lộ chuyển du du,
Lão khứ văn chương bất tự mưu.
Trục khách dĩ an tiều tử cước,
Thi ông nhưng thị phối quân đầu.
Hương kiều phong vũ nan vi dạ,
Đà Tấn vân sơn tiệm giác thu.
Tha nhật sầu tâm đãi quân ký,
Ngũ Khê minh nguyệt Dạ Lang chu.


Đà Nẵng khi đó là một cửa biển thuộc tỉnh Quảng Nam, nơi đóng quân của triều Nguyễn. Vũ Hoài Phủ tức Vũ Hữu Ái, người làng Thạch Lỗi, huyện Cẩm Phong, nay là huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Hưng. Ông đỗ cử nhân khoa Tân Mão năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), đồng khoa với tác giả. Ông làm tri phủ Vĩnh Tường rồi thăng đốc học tỉnh Thanh Hoá. Được tin lại bị phát phối đi Đà Nẵng, gặp lại bạn cũ, đôi bạn đưa nhau đi uống rượu trắng đêm bên Hương Kiều, tức tụ điểm Đông Ba ngày nay.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (7 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Xuân Trang

Đường về dằng dặc ngẫm đời ta
Chữ nghĩa toan chi lúc tuổi già?
Phận trục đành chân anh kiếm củi
Đầu thơ còn tướng tính đày xa
Hương kiều mưa gió đêm thao thức
Đà Tấn non mây thu lững lờ
Một tấm lòng sầu chờ bác gửi:
Năm khe thuyền Dạ bóng trăng đưa

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tố Hữu

Đường về xa lắc, ngẫm đời ta
Chữ nghĩa làm chi lúc tuổi già
Bị đuổi, yên thân chân kiếm củi
Làm thơ, còn tướng lính đày ta
Cầu Hương mưa gió đêm thao thức
Đà Nẵng, non mây, thu đón đưa
Chờ bác gửi cho lòng tưởng nhớ
Năm khe thuyền Dạ ánh trăng ngà

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của (Không rõ)

Từ nay biền biệt đường về
Tuổi già chữ nghĩa khó bề lo thân
Phận tiều trốn khách bình chân
Nghiệp thơ tướng lính gian truân lưu đầy
Hương Kiều mưa gió đêm nay
Thu về Đà Nẵng gió mây đôi miền
Nhớ thương gửi bạn trọn niềm
Ngũ Khê trăng tỏ soi thuyền Dạ Lang.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Đề

Thân này về được cũng lâu năm,
Phai lạt văn chương mái tóc râm.
Đành dõi gót tiều thân bị đuổi,
Khéo đem đầu lính lão hay ngâm.
Gió mưa rạo rực đêm Hương thuỷ,
Mây khói mịt mù tấn Quảng Nam.
Sầu ấy ngày nào xin nhớ lấy,
Năm khe thuyền cặp mảnh trăng rằm.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Đường về biền biệt ngẫm đời ta,
Chữ nghĩa sao an lúc tuổi già?
Khách đuồi đành làm anh đốn củi,
Làm thơ còn tướng lính đày xa.
Cầu Hương mưa gió đêm thao thức,
Đà Tấn non mây thu mịt mờ.
Ngoài tấm lòng sầu chờ bác gửi,
Ngũ Khê thuyền Dạ ánh trăng ngà.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Đất Văn Lang

Dịch nghĩa:

Đến sống ở đó, thì đường về quanh co xa lắc
Lão bỏ văn chương chẳng tự ý mình
Kẻ bị đuổi đã an phận làm chân thằng tiều phu
Nhà thơ vẫn là đầu lính sai của vợ
Cầu Hương mưa gió khó giúp cho đêm (ngon giấc)
Trạm Đà mây núi dần cảm thấy (hơi) thu
Ngày nào lòng buồn thì chờ bạn gởi
Con thuyền Dạ Lang, ánh trăng Ngũ Khê.

Đất Văn Lang
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đất Văn Lang

Ở đó đường về xa khúc khuỷu
Văn chương chẳng muốn cũng làm thinh
Đày đâu cũng gã tiều an phận
Thơ mấy cũng thân vợ khiển mình
Vỗ giấc Hương Giang mưa gió lạnh
Vào thu Đà Nẵng núi mây xinh
Mỗi khi sầu muộn chờ anh gởi
Bách, nguyệt Dạ Lang Ngũ Khê tình

Đất Văn Lang
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời