Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Thất ngôn bát cú
Thời kỳ: Nguyễn
6 bài trả lời: 6 bản dịch
1 người thích

Đăng bởi tôn tiền tử vào 24/11/2013 17:57, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 24/11/2013 17:57

薄暮思家

城上凍雲千里陰,
梁園花柳瞙沉沉。
高堂兩處思兒淚,
薄宦三春感舊心。
對榻貧妻烹北茗,
敲門小女弄南音。
邦家有道知何用?
一病蹉跎歲自深。

 

Bạc mộ tư gia

Thành thượng đống vân thiên lý âm,
Lương viên hoa liễu mạc trầm trầm.
Cao đường lưỡng xứ tư nhi lệ,
Bạc hoạn tam xuân cảm cựu tâm.
Đối tháp bần thê phanh bắc mính,
Xao môn tiểu nữ lộng nam âm.
Bang gia hữu đạo tri hà dụng?
Nhất bệnh tha đà tuế tự thâm.

 

Dịch nghĩa

Mây lạnh trên thành che rợp nghìn dặm,
Hoa liễu vườn (bên) cầu trông chìm chìm.
Hai chốn cao đường tuôn lệ nhớ con,
Chức quan bạc bẽo làm cảm thương cho lòng cũ của ba xuân.
Trước giường vợ nghèo đun chè xanh kiểu Bắc,
Gõ vào cửa con gái bé chơi điệu Nam.
Nước nhà có đạo biết dùng cách gì đây?
Một bệnh lây lất dài cả năm.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (6 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Thái Trọng Lai

Nghìn dặm mây che khuất lạnh thành,
Bên cầu hoa liễu nhạt tơ mành.
Cao đường hai chốn cùng rơi lệ,
Quan nhỏ chạnh niềm tấc cỏ xuân.
Vợ túng đun chè xanh lối Bắc,
Con khờ gõ cửa hát câu Nam.
Nước nhà thịnh trị làm gì nhỉ?
Bệnh hoạn dây dưa suốt cả năm.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Trên thành mù mịt lớp mây vần
Hoa liễu vườn chiều nhạt bóng xuân
Hai xứ cha già thương trẻ khóc
Ba năm quan nhỏ xót tình thâm
Con thơ gõ cửa câu Nam hát
Vợ túng gường bên trà Bắc đun
Đất nước thịnh cường sao chẳng biết
Liên miên bệnh hoạn suốt năm ròng

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đinh Tú Anh

Nghìn dặm mây che phủ lạnh thành
Bên cầu hoa liễu chẳng long lanh
Cao đường hai chốn thương cũng chịu
Quan mọn ba xuân tủi phải đành
Kiểu Bắc, vợ đun chè trước cửa
Điệu Nam, con gõ cửa sau mành
Nước nhà có đạo làm quan, lại
Bị bệnh quanh năm cứ thế hành!

15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Thanh Cải

Trên thành nghìn dặm bóng mây che,
Hoa liễu Lương Viên* thấy nhạt nhoè.
Cha mẹ đôi nơi tuôn lệ nhớ,
Quan nghèo ba Tết buốt lòng se.
Con thơ gõ cửa mê ngồi hát,
Vợ khó gom than mải nấu chè.
Nhà nước biết sao mà sử dụng?
Cả năm bệnh tật kéo lê thê.


* Theo ý cá nhân của người dịch thì “Lương viên chi hảo, bất thị cửu luyến chi gia”: Câu thành ngữ của Trung Quốc ngụ ý nói rằng nơi phồn hoa sung sướng, không đáng nhớ như quê hương của mình. Sau đó, câu này cũng được sử dụng để chỉ rằng một nơi dù rất thoải mái, nhưng không phải là nơi có thể ở lại lâu, phải đi càng sớm càng tốt.
Nguồn gốc câu thành ngữ: Tư Mã Tương Như là một tác gia đời đầu nhà Hán, từ và phú của ông rất xuất sắc. Nhưng Hán cảnh đế (Lưu Khải) đó không thích từ và phú, mà lại thích đi săn. Tư Mã Tương Như không thích theo Hán Cảnh đế đi săn (Vũ kỵ thường thị), ông liền đến Lương Hiếu vương (tức Lưu Vũ, em của Hán Cảnh đế) ở mấy năm. Nước Lương lúc ấy, nay là khu vực Thương Khâu, Khai Phong thuộc tỉnh Hà Nam. Lương Hiếu vương xây dựng Lương viên, chiêu nạp không ít văn sĩ. Đương khi thực khách ham ăn uống, nhưng đối với hoài bão của Tư Mã Tương Như không phải sung sướng gì, do đó ông nói một câu tự đáy lòng mình:” Lương Viên dù tốt, không phải nơi ở lại lâu được.”
Gốc tích Lương Viên: Lương Hiếu Vương đời nhà Hán có xây dựng một khu vườn nổi tiếng. Theo sử sách ghi chép, Lương viên là thái ấp của Lương Hiếu vương Lưu Vũ nhà Tây Hán, Lương Hiếu vương Lưu Vũ là cháu của Hán Cao Tổ Lưu Bang, con trai của Hán Văn đế, vì ông rất nhân từ hiếu thuận nên sau khi ông chết được truy phong là Hiếu vương, người đời sau gọi là Lương Hiếu vương. Vì ông ta có công lao hiển hách, lại được Đậu Thái hậu sủng ái, ông được ban thuởng nhiều vô số, lại phong cho đất Đại Lương (nay là Lương viên), đồng thời xe được cắm cờ vua. Lúc ông đi lại có đoàn tuỳ tùng rầm rộ, xe ngựa ngợp trời giống như hoàng đế, ra khỏi điện có người hô dẹp đường, vào cung có người bẩm báo. Đến kinh thành, thường cùng Hoàng đế ngồi trên long xa, ra vào cung vua. Đương thời nước Lương giàu có phồn thịnh, do đứng đầu các nước chư hầu, tiền bạc, châu báu trong kho phủ còn nhiều hơn cả kho kinh thành. Sau khi Lương Hiếu vương chết, các đồ quý giá đều đưa vào trong mộ, sử cách có chép rằng, trong khi đào trộm ngôi mộ của Tào Tháo, vàng bạc châu báu đã thu được hơn mười vạn cân, phải dùng bảy mươi hai chiếc thuyền mới chở hết.
(Theo tài liệu của Trung Quốc trên internet)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Mây lạnh trên thành rợp dặm nghìn,
Bên cầu hoa liễu trông chìm chìm.
Cao đường hai chốn tuôn sầu nhớ,
Bạc bẽo chức quan tổn lòng tin.
Kiểu Bắc vợ đun chè phía trước,
Điệu Nam con gõ chơi một mình.
Cách gì biết nước nhà còn đạo?
Bệnh tật liên miên làm tội tình.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đất Văn Lang

Mây lạnh trên thành giăng vạn dặm
Vườn mờ hoa liễu dáng trầm ngâm
Mẹ cha hai cảnh sầu tuôn lệ
Quan quách ba mùa hổ thẹn tâm
Trước chõng vợ đun chè lá bắc
Gõ song con hát điệu hò nam
Nước nhà có kiểu tài không dụng
Bệnh lại thêm nhiều suốt cả năm

Đất Văn Lang
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời