Đông trù tư mệnh táo quân!
Ai cho ông xuống cõi trần chúng tôi?
Mười hai tháng toàn ngồi xó bếp,
Cứ năm năm đến tết lại chuồn.
Bắt người hạ giới phải luôn
Rượu ngon thịt béo, mâm vuông cỗ tròn.
Lại phải cúng một con cá chép,
Để xực rồi, hoá phép bay đi.
Lại còn áo mũ vàng hia,
Để làm hành lý, đặng đi chầu trời.
Chỉ khác cảnh người đời một cái,
Là ở truồng chẳng phải mặc quần.
Còn thời cũng giống thế nhân,
Mười phần phong độ, mười phần chẳng sai.
Đã thế, lại làm oai làm phách,
Giở đủ trò quan cách đế vương.
Ngàn năm vẫn cái lệ thường,
Quỵ quỳ bái lạy, trăm phương ngần lần.
Thế mà cũng thiên thần tiếng gọi,
Sứ nhà trời xuống cõi trần đây;
Để ba trăm sáu chục ngày,
Lẩn ngồi xó bếp làm tay mọt già.

Xét ông xưa vốn là đất sét,
Do tay người nặn thét mà ra.
Lại hai ông với một bà,
Chồng chung vợ chạ sao ra hĩnh người.
Nhìn hình dáng ôi thôi quái cổ,
Trần trùng trục chẳng có cái chi.
Mắt tai đã chẳng có gì,
Chân tay mặt mũi lại thì cũng không!
Thế mà gọi là ông kia chứ,
Bằng không thì chẳng thứ cho đâu.
Hăm ba tháng chạp đi chầu,
Vu oan giá hoạ ra mầu chẳng chơi.
Làm sao tít cụ trời nổi đoá,
Bá xàm tin, gieo vạ thế gian,
Gió mưa sấm sét đoàng đoàng,
Thiên tai, hồng thuỷ bay lan khắp vùng.
Hết chiến tranh đùng đùng thế giới,
Lại lần sang tới cõi Việt Nam,
Lại qua nước Mã, nước Hàn,
Lại rừng Ma-rốc, lại ngàn Ân-giê;
Lại Ai-cập, Xi-ry, Do-thái,
Và gần đây lại cõi Trung Đông.
Khắp nơi trong cõi bụi hồng,
Không ngày nào có ngày không rối mèng.
Trên cao tít thượng thiên trời ở,
Có thấy gì đâu ở thế gian?
Chỉ nghe báo láo báo càn,
Gây hàng chuỗi vạ giây oan giết người.
Chẳng biết xét đâu lời phải quấy,
Chỉ tin bừa nghe bậy ở ông.
Rồi thành ra ở bất công,
Làm trời ăn ở như không biết gì.
Tội ông kể ra thì còn nữa,
Nước biển Đông khôn rửa cho cùng.
Nhưng nay lấy lượng khoan hồng,
Cử tôi tạm kể cho ông biết mà;
Gánh gồng để cút cho xa,
Lên trời ở nhớ dừng qua cõi trần.
Thời phong kiến, thực dân đã hết,
Hỏi ông rày đã biết hay chưa?
Mà còn lần nữa dây dưa,
Còn nằm xó bếp đợi chờ tiễn chân.

Đông trù tư mệnh táo quân!
Nhủ cho ông biết nhanh chân mà chuồn.
Lên trời nhớ ở luôn chớ xuống,
Thứ người ông ai chuộng nữa đâu.
Dị đoan đã hết từ lâu,
Tục đưa Táo cũng như hầu mất tiêu.
Còn tiếc rẻ đánh liều xuống nữa,
Hãy xem chừng đây lũ chúng tôi,
Cho ông ra trước toà ngồi
Một hàng cùng với lũ bồi thực dân.
Nay nhân tiết gần xuân năm Dậu,
Tạm đôi hàng nhắn bảo qua loa,
Lễ thành tâm bạc gọi là,
Muối dưa gạo tiễn, hấp mà... a-lê.


Xuân Đinh Dậu 1957

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]