Bản dịch của Xuân Diệu

Lũ hèn, định chạy về Viên
Không cho chúng nghỉ, ta liền rượt mau
Thấy quân Hung, chúng xéo nhau
Cầm cờ một bác đi đầu quân ta

Cờ xiết chặt - ngón tay già
Nhưng trong đôi mắt ánh hoà trẻ trung
Tôi ngắm bác, dạ hào hùng
Vì cha tôi đó, là ông cầm cờ

Cha tôi đó, bác lính già
Nghe vang tiếng gọi: "Nước nhà lâm nguy!"
Bao đau đớn, thoắt quên đi
Bác rời giường, đứng dậy ghì cờ thiêng!

Đời dài lắm khổ vai nghiêng
Năm mươi tám tuổi nặng triền lên lưng
Đau lo dù trải mấy từng
Ông già nhập ngũ giữa rừng trẻ trai

Người, thường đi lại uể oai
Dù bàn ăn đến giường: vài bước thôi
Mà nay đuổi giặc phải lui
Tuổi thanh niên thấy lại rồi, lòng hăng

Cái gì thúc giục bác chăng
Giữa nơi trận mạc? Của bằng ai đâu
Có chi đâu có sang giàu
Rằng ngăn giặc bởi lo âu bảo toàn

Đất thì không một tấc gang
Gọi là đặt cỗ áo quan khi nằm
Thế nhưng cờ ấy bác cầm
Đi đầu những kẻ non sông giữ gìn

Vì nghèo súng mới cầm lên
Giàu ra trận phải đâu gìn non sông
Giàu gìn của cải bản thân
Chỉ anh nghèo mới yêu thương nước nhà

Cha yêu! từ trước con là
Niềm vui duy nhất của cha tự hào
Bây giờ vai đã đổi trao
Cha là kiêu hãnh dạt dào lòng con

Trán cha đáng hiệu anh hùng
Con đây nóng được trùng phùng mặt cha
Để hôn tha thiết tay già
Đã cầm vững chãi lá cờ thiêng liêng

Nếu mà không gặp nữa chăng?
Vinh quanh cha vẫn huy hoàng mắt con
Lệ con trên mộ rơi sương
Mà danh cha tựa vừng dương chiếu vào

Erdőd, 17 đến 22-10-1848

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]