Bản dịch của Trương Việt Linh

Các tướng trung hưng thu Sơn Đông.
Thắng trận ngày đêm báo tin mừng.
Sông rộng thuyền nan qua chẳng khó,
Vận mệnh giặc Hồ tựa mảy lông.
Tướng tài phương bắc lập đại công.
Kinh đô rặt cưỡi ngựa huyết hãn,
Lính Hồi Ngột chiếm Bồ Đào cung.
Mừng uy vua dẹp vùng Hải Đại,
Thường nhớ xe qua núi Không Đồng.
Ba năm nghe khúc “Trăng quan ải”,
Muôn nước đoàn quân cây cỏ rung.
Thành Vương công lớn lòng khiêm tốn,
Quách Tướng mưu sâu xưa nay hiếm.
Tư Đồ trong sáng tựa gương treo,
Thượng Thư khí phách trời thu cao.
Hào kiệt mấy người ra giúp nước,
Sắp đặt cứu đời yên trời đất.
Chẳng chạy về đông nhớ cá vược,
Chim về tổ ấm, kẻ xuôi nam.
Rạng nét thanh xuân, rỡ áo xiêm,
Hoa khói mơ màng, điện tôn nghiêm.
Xe loan, xe hạc rộn ngày đêm.
Gà gáy vào chầu nơi kim bệ,
Vin rồng, náu phượng ai quyền thế.
Thiên hạ đều là bậc hầu vương.
Các ngươi nên biết nhờ thánh quân,
Vốn kẻ gắp thời đừng khoe sức!
Tiêu Hà thừa tướng đất Quan Trung,
Dưới trướng dùng mưu kế Trương Lương.
Ông Trương vốn người nơi sông nước,
Râu tóc pha sương, cao chín thước.
Đươc vua mời đến hội gió mây,
Chống đỡ thế nguy, mưu giỏi thay.
Áo xanh ngựa trắng giặc chạy đi,
Sau Hán, nay Chu đời hưng thịnh.
Đất trời một tấc cũng đem cống,
Điềm lành vật báu đem dâng lên.
Lại có xứ nào hiến ngọc trắng,
Lại nơi núi nọ dâng “ngân úng”
Kẻ ẩn không hát “Tử chi ca”
Văn nhân không làm “Hà thanh tụng”.
Nhà nông chốn chốn tiếc nắng mưa,
Khắp nơi chim giục sớm cày bừa.
Chiến sĩ sông Kỳ mau trở lai!
Thiếu phụ thành nam chờ trông mãi,
Sao có tráng sĩ kéo sông Ngân,
Rửa sạch giáo gươm quyết chẳng dùng.