Bản dịch của Trương Việt Linh

Tiếng vàng sắt khua vang loảng xoảng
Xe ngựa qua chó hoảng gà kêu
Cửa nhà đóng mở liêu xiêu
Đỡ già, dắt trẻ dìu nhau qua đường
Chốn này vốn đã chừng ba tháng
Nổi binh đao Hoạt, Tuấn đôi nơi
Mười quan giặc giết chín người
Gió tây khắp chốn nặc mùi máu tanh
Lại Trực Lệ Sơn Đông hưởng ứng
Đạo Bạch Liên giáo chúng thần thông
Quan châu nghe giặc đến gần
Suốt đêm đèn tỏ sổ đinh đếm người
Quan võ mới nghe hơi giặc đến
Vội mài gươm chờ lệnh ra tay
Dân thành nghe giặc tới đây
Năm ba người lại xúm đầu nhỏ to
Khách xa đến lờ mờ đâu tỏ
Tiến hay lùi súng nổ rền vang
Kinh hoàng cả xứ Hà Nam
Hịch truyền cấp tốc vội vàng sao bay
Cát bụi cuộn mặt trời che khuất
Bộ, kỵ binh chạy dọc chạy ngang
Kỵ binh cung cứng sừng cong
Tên dài đầy ống màu lông trắng ngần
Bộ binh lại tay cầm dao ngắn
Gươm mới mài có gắn tua hồng
Lại thêm khí giới tân binh
Chặt tre làm giáo vỏ xanh tươi màu
Xe lớn chở cung dây đầy ắp
Xe nhỏ thì chở rặt chông dài
Suốt ngày đi mãi chẳng ngơi
Cả hàng trăm dặm bời bời binh đao
Đường tắt nghẽn làm sao qua đặng
Kẻ tiễn đưa im lặng thở dài
Tiến lui đều khó khăn rồi
Ngổn ngang trong dạ bời bời biết sao

Nước sông Hoàng dâng cao hơn trước
Năm ngày qua trên cát đói lòng
Hôm nay châu Vệ nghẽn đường
Đường lên phía trước bình yên khi nào
Ước có chuyến xe bay vạn dặm
Chỉ một ngày đến thẳng kinh đô
Nơi đây hạn hán mất mùa
Hồ Nam. Hồ Bắc không mưa lâu ngày
Cả trai gái mặt mày xanh mét
Cám làm cơm, canh rặt rau lê
Thây ai chết đói giữa lề
Còn nguyên hột táo lăn ra giữa đường
Vách nhà trống còn in rõ chữ
Hàng mấy trăm hộ đói chết lần
Khổ thay cho phận người dân
Chén cơm manh áo chẳng cần tử sinh
Coi chiến loạn trẻ con đùa giỡn
Chỉ mở kho phát chẩn được rồi
Mất mùa dân chết tại trời
Dối mình mà cũng khéo lừa nhà vua
Thành Tân Trịnh cũng vừa yết bảng
Cứu dân đen cấp lúa từng nhà
Lúa vàng rộ bắc Hoàng Hà
Trăm ngày con vợ hẳn là hồi sinh
Về thôi đừng có liều mình
Quan trên yêu quý tựa hình cha anh