Bản dịch của Nghiêm Huyền Vũ

Anh đứng đó
              người phế binh
quần áo trắng
              ngay bên chùa phật
Cái gáo trên tay
              cánh tay duy nhất
Trong đó
              không hề nghe
                              tiếng những đồng xu
Anh ra hiệu
              để người ngoại bang kia
                              không chĩa ống kính
                                                tò mò
và những nếp nhăn như những đường hào khắc khổ
nỗi nhọc nhằn cố thủ trọn đời ở đó
Và những kẻ tàn phế tinh thần từ phương Tây
sang Châu Á tìm ý nghĩa cuộc đời
chạy lăng xăng kiệt sức
nhìn một cách đắng cay
               ống tay áo rỗng không lủng lẳng
Họ đi từ cánh đồng miền Ê-li-xây
đến vái chào cửa Phật
                trào lưu mốt nhất...

Người phế binh
                cảm thương
những kẻ tàn phế thời bình
và ống tay áo rỗng không
cảm thương những người tàn tật
không phải vì đạn bom
Những người bị thương vì bần cùng
và bị những chương trình truyền hình đầu độc
ống tay áo buồn lẻ loi
                 giữa những thế kỷ đi sau

Bên cạnh anh
              người ta bán cho lũ trẻ chơi
                           những chú hươu sao
những chú hươu cao su
               như cũng ngã vào lòng xin âu yếm
Nhưng sẽ có một chú hươu
               một chú hươu thật
                                  sẽ đến
với người phế binh
Trên hai chân sau
               đứng vươn mình
như mặt trời Nip-pông vàng rực
liếm ống tay áo rỗng không
như vuốt ve cánh tay còn chưa mất...

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]