[Hà Hưng Tông giữ chức] tri Vị Long châu, phò ký lang, đô tri tả vũ vệ đại tướng quân, kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu thái phó, đồng trung thư, môn hạ bình chương sự, kiêm quản nội khuyến nông sự, thượng trụ quốc, thực ấp ba nghìn chín trăm hộ, thực thực phong chín trăm hộ.
Ôi! Cái chân không trong lặng, giấu hình khi trời đất chưa chia; cái diệu hữu nẩy sinh, bao trùm trước hữu hình vận động. Sáng thì gạt bỏ cái “không”, Vì cơ vi chẳng phải là không; mê thì bám lấy cái “có”, coi mầu nhiệm cũng là không có. Xa nghĩ đức Phật tổ xưa, trí tuệ của người xem xét tất cả không sót một ai. Cho nên người: giấu kín cái “thực”, làm rõ cái “quyền”, để gọi bảo cái đạo “thường”, “vui” mãi mãi; từ cái “không” đi vào cái “có”, để giúp cho sự hồi hướng giải thoát đời đời. Khéo mở ra muôn vạn pháp môn; để dạy bảo muôn nghìn thế giới. Lênh đênh dòng nước trời Tây; vời vợi suối nguồn Chu Mục. Bắt đầu xây dựng chùa này; hết dạ tôn sùng tượng giáo. Người xưa khuyên bảo, đổi mới không ngừng; hậu thế lưu truyền, đời đời nối dõi. Kẻ có duyên thì cải ném đầu kim; người không hiểu thì nước trôi xô đá.
Kính thay Thái phó Hà Hưng Tông, thuỷ tổ là người ở xóm Ca Nông, hương Thạch Bách, huyện Hà, thuộc Đông Đô, châu Ung Cao tổ là Hà Đắc Trọng, xa nghe giáo hoá của vương triều, dời gót xin làm thần thứ. Từ đó gìn giữ an toàn châu Vị Long vậy. Dân đã ấm no; người đời tôn trưởng. Cho tới đời thứ tám, kể cả tổ tiên xưa có hai đời làm Thái bảo và Thái phó, nghiệp lớn càng thịnh, công cả càng cao. Được coi giữ bốn mươi chín động, mười lăm huyện, dân chúng đều thấm nhuần giáo hoá tốt đẹp, đều hướng về một khuôn phép chung. Trải qua năm đời thì đến đời bấy giờ. Ông của Thái phó giữ chức Thái bảo, lấy công chúa thứ ba của Thái Tổ hoàng đế làm phu nhân. Nhân việc đó lại được Thái Tổ trao cho chức Hữu đại liêu ban. Phu nhân sinh ra hàng cha chú của Thái phó; tất cả có bốn trai tài, ba gái đảm. Riêng thân phụ Thái phó là người thi hành nhân chính; làng xóm yên vui. Thân phụ của Thái phó lấy con gái thứ sáu của quan Thái thú họ Lý ở Phú Nghĩa làm phu nhân. Từ khi sinh con trai đầu lòng cho đến người con trai thứ tư, cha mẹ Thái phó đều nuôi dạy ân cần; cho chơi đùa hợp cách con trai thì dùi mài kinh sử; con gái thì kim chỉ thêu thùa. Ngày qua tháng lại, năm Ất mão niên hiện Thái Ninh [1074], thân phụ Thái phó chỉnh đốn vương sư, đánh sang ải Bắc. Vây thành Ung cho bõ giận; bắt tướng võ dâng tù binh. Do đó, phụ thân Thái phó được nhà vua ban chức Hữu đại liêu bàn đoàn luyện sứ. Cấy cày theo phép tỉnh điền, thóc lúa ùn ùn như núi; khách khứa ba nghìn đông đúc, cửa nhà nhộn nhịp phố phường.
Năm Đinh Tị niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng [1077], bấy giờ Thái phó mới lên chín tuổi, chiếu gắn hồ son vời về sân đỏ; sổ tiên lựa chọn, kết bạn em vua. Nhưng vì Thái phó còn nhỏ, nên xin được về nấp bóng mẹ cha. Đến tháng Giêng năm Mậu Ngọ [1078], Thái phó mới lên mười tuổi. Nhà vua lại sai quan Nội phụ văn tư lang trung là Kiểu Nghĩa, ngầm mang thánh chỉ, thẳng tới ấp phong, đón trẻ thơ ở nơi xa vắng, cho gang tấc gần gũi mặt rồng, để kết duyên với công chúa Khâm Thánh và phong làm Tả đại liêu ban. Than ôi! Giữ lễ tiết trang nhã; sửa dung mạo đoan trang. Nâng khuê bích nguy nga; vận lễ phục rực rỡ.
Cuối đông năm Nhâm Tuất [1082], vua tiễn đưa công chúa về nhà chồng ở bản châu. Nhà vua ban tiệc mừng long trọng; Thái phó sắm đủ lễ đón dâu. Ăn mặc đủ màu, dân chúng xem đông như hội; năm cung sáu viện, chị em đưa tiễn rợp đường. Đạo thất gia chưa vẹn, tình xướng hoạ chưa lâu, bỗng năm Ất Sửu niên hiệu Quảng Hựu [1085] mẹ cha đều mất, công chúa tóc tang.
Đến năm Bính dần [1086] nhà vua xuống chiếu cho Thái phó được nối chức cha, vẫn giữ tước củ là Tả đại liên ban, lại kiêm thêm Tri châu Vị Long, giữ tiết độ sứ, kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu Thái phó. [Thế là] được quyết định chính sự bắt đầu từ tằng tổ, sau đó cứ lần lượt thay nhau xuống đến mãi Hưng Tông, tất cả mười lăm đời. Ôi, chữ “thời”! Nước xây dựng trên đạo, vững như cột đá; dân hấp thu giáo hoá, xuôi như dòng sông. Hoặc việc nước có điều chưa trọn, thì suy đi nghĩ lại không thôi; xét thói xưa có chỗ đáng tin, thì tạc dạ ghi lòng nào bỏ. Vườn văn rừng phú, sưu tập khắp nơi; cửa lễ đường nhân, dạo chơi đủ chốn. Điều tín là ở nơi bè bạn thì tha thiết ân cần; chữ hiếu là thờ cúng tổ tiên thì băn khoăn khép nép.
Ôi! Giữ lòng thanh làm của báu, sợ một điều “lạc cực sinh bi”; mang hạt trai trong mình, e đã được mà lại mất. Muốn hưởng phúc thuần; lòng ham đạo Phật. Cho nên cuối xuân năm Đinh Hợi niên hiệu Long Phù Nguyên Hoá [1107], Thái phó dắt dẫn hương lão, xem hướng ở góc quận, chọn đất phía nam Hán Lộc, giáp bên mạn bắc Mẫu Cung [làm nơi dựng chùa]. Cùng đem rìu búa; phát xén rừng mây. Lại chọn thợ hay, xây dựng đền tía. Đẽo gỗ rừng chan chát; chuyển quang sọt rộn ràng. Xà uốn cong cong ngỡ cầu vồng bắc nhịp; mái hiên xoè cánh như chim chóc tung bay. Nhà trắng bao quanh, Tam ma địa gần gũi; tượng vàng đặt giữa, Ngũ tịnh thiên khác nào. Trầm hương nghi ngút, bốc tới trời mây; chuông khánh nhịp nhàng, vang lừng hang động. Hoa thông xanh tốt, chiếm mãi gió từ; cờ phướn quy y, bỏ xa nhà lửa. Nguyện chúc hoàng thượng ngự ngôi báu đời đời; giữ gương huyền mãi mãi. Phận dẫu chỉ là bầy tôi giữ đất; vẫn mang chí mong được gần trời. Thứ chúc quận quân, nương đạo cùng con gái, con trai: gái thì chọn đạo vu quy, đá vàng chung thuỷ; trai thì hết lòng phụng dưỡng, tùng bách xanh tươi. Cuối cùng kính chúc các vị tổ tiên, đều hưởng công ơn diệu quả; đầy đàn con cháu, tắm chung ân huệ lương duyên.
Muốn làm tỏ rõ đời nay, phải ghi bia đá; [cho nên Thái phó] đã sai tôi ghi dẫn và bầy tỏ như sau.
Lời rằng:
Định thể nào không,
Diệu dụng đâu có.
Không, có chớ lìa,
Quả, chân khôn xoá.
Không yên trung đạo,
Biết chọn bên nào?
Tỏ quyền giấu thực,
Đôi đằng tính sao?
Rằng xưa Phật tổ,
Dắt dạy quần sinh.
Không vướng không mắc,
Có duyên có tình.
Lớn thay họ Hà,
Rỡ ràng tiếng tốt.
Tiên tổ qua đời,
Cháu con nối gót.
Bốn mươi chín động,
Đúng mười lăm đời.
Non sông giữ vững,
Nhân ái giúp thời.
Chân tính sáng suốt,
Căn tuệ vững bền.
Ngói xanh lại lợp,
Cõi vàng dựng nên.
Phía nam Hãn Lộc,
Phía bắc Mẫu Cung.
Đất không bụi bặm,
Hơi núi mịt mùng.
Người giỏi ra đời,
Đạo thì thống nhất.
Công đức tạc bia,
Như non khôn mất.
[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]