Thơ » Trung Quốc » Trung Đường » Bạch Cư Dị
潯陽江頭夜送客,
楓葉荻花秋瑟瑟。
主人下馬客在船,
舉酒欲飲無管弦。
醉不成歡慘將別,
別時茫茫江浸月。
忽聞水上琵琶聲,
主人忘歸客不發。
尋聲暗問彈者誰,
琵琶聲停欲語遲。
移船相近邀相見,
添酒回燈重開宴。
千呼萬喚始出來,
猶抱琵琶半遮面。
轉軸撥弦三兩聲,
未成曲調先有情。
弦弦掩抑聲聲思,
似訴生平不得志。
低眉信手續續彈,
說盡心中無限事。
輕攏慢撚抹復挑,
初為霓裳後六么。
大弦嘈嘈如急雨,
小弦切切如私語。
嘈嘈切切錯雜彈,
大珠小珠落玉盤。
閒關鶯語花底滑,
幽咽流景水下灘。
水泉冷澀弦凝絕,
凝絕不通聲漸歇。
別有幽愁暗恨生,
此時無聲勝有聲。
銀瓶乍破水漿迸,
鐵騎突出刀鎗鳴。
曲終收撥當心畫,
四弦一聲如裂帛。
東船西舫悄無言,
惟見江心秋月白。
沈吟放撥插弦中,
整頓衣裳起斂容。
自言本是京城女,
家在蝦蟆陵下住。
十三學得琵琶成,
名屬教坊第一部。
曲罷曾教善才服,
妝成每被秋娘妒。
五陵年少爭纏頭,
一曲紅綃不知數。
鈿頭銀篦擊節碎,
血色羅裙翻酒污。
今年歡笑復明年,
秋月春風等閒度。
弟走從軍阿姨死,
暮去朝來顏色故。
門前冷落車馬稀,
老大嫁作商人婦。
商人重利輕別離,
前月浮梁買茶去。
去來江口守空船,
繞船月明江水寒。
夜深忽夢少年事,
夢啼妝淚紅闌干。
我聞琵琶已歎息,
又聞此語重唧唧。
同是天涯淪落人,
相逢何必曾相識。
我從去年辭帝京,
謫居臥病潯陽城。
潯陽地僻無音樂,
終歲不聞絲竹聲。
住近湓江地低濕,
黃蘆苦竹繞宅生。
其間旦暮聞何物,
杜鵑啼血猿哀鳴。
春江花朝秋月夜,
往往取酒還獨傾。
豈無山歌與村笛,
嘔啞嘲哳難為聽。
今夜聞君琵琶語,
如聽仙樂耳暫明。
莫辭更坐彈一曲,
為君翻作琵琶行。
感我此言良久立,
卻坐促弦弦轉急。
淒淒不似向前聲,
滿座重聞皆掩泣。
座中泣下誰最多,
江州司馬青衫濕。
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.
Chủ nhân há mã khách tại thuyền,
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền.
Tuý bất thành hoan thảm tương biệt,
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt.
Hốt văn thuỷ thượng tỳ bà thanh,
Chủ nhân vong quy khách bất phát.
Tầm thanh âm vấn đàn giả thuỳ,
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì.
Di thuyền tương cận yêu tương kiến,
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến.
Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai,
Do bão tỳ bà bán già diện.
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh,
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình.
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ,
Tự tố sinh bình bất đắc chí.
Đê mi tín thủ tục tục đàn,
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự.
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu,
Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu.
Đại huyền tào tào như cấp vũ,
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn,
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn.
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt,
U yết lưu cảnh thuỷ hạ than.
Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết.
Biệt hữu u sầu ám hận sinh,
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.
Ngân bình sạ phá thuỷ tương bính,
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh.
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch,
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch.
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn,
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch.
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung,
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.
Tự ngôn bản thị kinh thành nữ,
Gia tại Hà Mô lăng hạ trú.
Thập tam học đắc tỳ bà thành,
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ.
Khúc bãi tằng giao thiện tài phục,
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu,
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số.
Điền đầu ngân tị kích tiết toái,
Huyết sắc la quần phiên tửu ố.
Kim niên hoan tiếu phục minh niên,
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ.
Đệ tẩu tòng quân a di tử,
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.
Môn tiền lãnh lạc xa mã hy,
Lão đại giá tác thương nhân phụ.
Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ.
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền,
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn.
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự,
Mộng đề trang lệ hồng lan can.
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức,
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức.
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân,
Tương phùng hà tất tằng tương thức.
Ngã tòng khứ niên từ đế kinh,
Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành.
Tầm Dương địa tích vô âm nhạc,
Chung tuế bất văn ty trúc thanh.
Trú cận Bồn giang địa đê thấp,
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh.
Kỳ gian đán mộ văn hà vật,
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh.
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ,
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh.
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch,
Âu á trào triết nan vi thính.
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ,
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh.
Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc,
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành.
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập,
Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp.
Thê thê bất tự hướng tiền thanh,
Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp.
Toạ trung khấp hạ thuỳ tối đa,
Giang Châu tư mã thanh sam thấp.
Ban đêm đưa tiễn khách ở đầu sông Tầm Dương
Gió thu thổi vào lá phong, hoa lau hiu hắt
Chủ nhân xuống ngựa, khách trong thuyền
Nâng chén rượu muốn uông (mà) không có đàn sáo
Say mà không vui vẻ gì (vì) biệt ly sầu thảm
Lúc chia tay lòng mang mang, sông đượm bóng trăng
Chợt nghe có tiếng tỳ bà trên mặt nước
Chủ nhân quyên về, khách cũng không khởi hành
Tìm theo tiếng để hỏi người đàn là ai
Tiếng tỳ bà im bặt, muốn nói mà còn (ngại ngùng) trì hoãn
Bèn dời thuyền lại xin được gặp mặt
Rót thêm rượu, khêu đèn lên, trùng tân tiệc rượu
Gọi đến ngàn lần vạn lần mới bước ra
Tay ôm tỳ bà che khuất nửa gương mặt
Vặn trục gảy dây hai ba tiếng (để thử)
Chưa có khúc điệu gì mà nghe đã hữu tình
Dây nào cũng nghẹn ngào, tiếng nào cũng có ý
Bày tỏ nỗi bất đắc chí trong cuộc đời
Hạ thấp lông mày cứ gảy cứ gảy mãi
Giãi bày hết tâm sự vô cùng hạn
Nhẹ nắn, chậm vuốt, rồi lại gảy tiếp
Thoạt đầu là khúc Nghê thường, sau đó là khúc Lục yêu
Dây lớn ào ào như mưa rào
Dây nhỏ nỉ non như tỉ tê chuyện riêng
(Rồi tiếp đến) tiếng rào rào lẫn tiếng nỉ non
(Nghe như) hạt châu lớn hạt châu nhỏ rắc vào trong mân ngọc
(Nghe như) tiếng chim oanh giọng (líu lo) qua lại trong hoa
Nhịp suối ngập ngừng, nước chảy xuống bãi
Suối nước bỗng lạnh đông, dây đàn ngưng bặt
Tiếng đàn ngưng bặt, không thuận, bấy giờ bỗng yên lặng
Tự có mối sầu u uất riêng, nỗi hận âm thầm phát sinh
Lúc này không có âm thanh mà nghe con hay hơn có
(Bỗng dưng nghe như) tiếng nước bắn tung ra khỏi thành bình bạc vị phá vỡ
(Nghe như) đoàn quân thiết kỵ ào ào đến, đao thương sáng ngời
Nàng dạo tay vào giữa bốn dây (và) chấm dứt ca khúc
Bốn dây vang lên một âm thanh như lụa xé
Thuyền mảng đông tây lặng im, không một tiếng nói
Chỉ thấy vầng trăng thu rọi sáng giữa sông
Nàng trầm ngâm gỡ phím, cài vào giữa các dây đàn
Sửa gọn xiêm áo lại, đứng dậy chỉnh vẻ mặt
Tâm sự rằng, nàng nguyên là con gái chốn kinh thành
Nhà ở lăng Hà Mô
Mười ba tuổi học được ngón đàn tỳ bà
Tên thuộc bộ thứ nhất của giáo phường
Mỗi gảy hết khúc đàn, từng khiến các nhà dạy đàn phục
Mỗi trang điểm xong là đến nàng Thu Nương cũng đố kỵ
Những chàng trai trẻ ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng biếu
Một bài ca, thưởng không biết bao là tấm lụa đào
Vành lược bạc, cành trâm vàng đánh nhịp vỡ tan
Quần lụa màu huyết dụ để rượu đổ ra hoen ố
Năm này vui cười, năm sau cũng như vậy
Trăng thu gió xuân, trải một đời nhàn hạ
Em trai đi lính, rồi dì chết
Chiều qua, sớm lại, nhan sắc cũng lão đi
Trước cổng dần vắng tanh, thưa thớt đi ngựa xe
Cũng có tuổi rồi mới làm vợ người lái buôn
Người lái buôn chỉ tham lợi, coi thường biệt ly
Tháng trước đi Phù Lương mua trà
Từ đó đến giờ ở đầu sông một mình với con thuyền không
Quanh thuyền trăng sáng, nước sông lạnh lẽo
Đến khuya bỗng mộng thấy lại thời trẻ trung
Trong mộng thấy khóc nhoè má hồng phấn son
Tôi nghe tiếng tỳ bà đã thán tức
Giờ nghe thêm những lời tâm sự lại càng bùi ngùi
Cùng là kẻ luân lạc ở chốn chân trời
Gặp gỡ nhau đây hà tất đã từng quen biết
Năm ngoái tôi từ biệt kinh vua
Bị biếm đến thành Tầm Dương cho đến nay nằm bệnh
Tầm Dương xứ hẻo lánh không có âm nhạc
Cả năm chưa nghe được tiếng đàn sáo
Tôi ở gần sông Bồn, chỗ thấp và ẩm ướt
Lau vàng, trúc võ mọc quanh nhà
Ở nơi đây sáng chiều nghe được những gì
Có tiếng quốc khóc ra máu và tiếng vượn hú bi ai
Mùa xuân sáng hoa nở, mùa thu ban đêm có ánh trăng
Tôi thường thường đem rượu ra uống một mình
Có phải không có sơn ca thôn địch đâu
Khốn nỗi líu lo, líu liết, thật khó nghe
Đêm nay nghe được tiếng tỳ bà của nàng
Như nghe được tiếng nhạc tiên, tai tạm nghe rõ ràng
Xin ngồi lại đàn một khúc
Tôi sẽ vì nàng làm bài Tỳ Bà hành
Cảm động vì lời tôi nói, nàng đứng một lúc lâu
Rồi ngồi xuống gảy đàn, tiếng bỗng chuyển thành cấp xúc
Buồn thảm không giống như tiếng đàn vừa rồi
Hết những người trong tiệc nghe lại đều che mặt khóc
Trong những người ấy ai là người khóc nhiều nhất
Tư mã Giang Châu ướt đẫm vạt áo xanh
Nguyên Hoà thập niên, dư tả thiên Cửu Giang quận tư mã. Minh niên thu, tống khách Bồn phố khẩu, văn thuyền trung dạ đàn tỳ bà giả, thính kỳ âm, tranh tranh nhiên hữu kinh đô thanh; vấn kỳ nhân, bản Trường An xướng nữ, thường học tỳ bà ư Mục, Tào nhị thiện tài. Niên trưởng sắc suy, uỷ thân vi cổ nhân phụ. Toại mệnh tửu, sử khoái đàn sổ khúc, khúc bãi mẫn nhiên. Tự tự thiếu tiểu thời hoan lạc sự, kim phiêu luân tiều tuỵ, chuyển tỷ ư giang hồ gian. Dư xuất quan nhị niên điềm nhiên tự an, cảm tư nhân ngôn, thị tịch, thuỷ giác hữu thiên trích ý, nhân vi trường cú ca dĩ tặng chi, phàm lục bách nhất thập lục ngôn, mệnh viết Tỳ bà hành.Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.
元和十年,予左遷九江郡司馬。明年秋,送客湓浦口,聞船中夜彈琵琶者,聽其音,錚錚然有京都聲;問其人,本長安倡女,嘗學琵琶於穆曹二善才。年長色衰,委身為賈人婦。遂命酒,使快彈數曲,曲罷憫然。自敘少小時歡樂事,今漂淪憔悴,轉徙於江湖間。予出官二年 恬然自安,感斯人言,是夕,始覺有遷謫意,因為長句歌以贈之,凡六百一十六言,命曰琵琶行。
(Năm Nguyên Hoà thứ 10, ta về giữ chức tư mã ở quận Cửu Giang. Qua mùa thu năm sau, đêm ra tiễn khách bên bến sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn tỳ bà vọng lại. Nghe trong tiến đàn thánh thót, âm vang điệu nhạc ở kinh đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn bà trả lời rằng “Tôi vốn là con hát, quê ở Trường An, học đàn tỳ bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng làm con buôn (thường theo thuyền buôn đi đây đi đó)”. Nghe vậy, cho dọn rượu ra đãi, xin nàng đàn lại cho nghe. Đàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời mình từ lúc còn trẻ, vui sướng, cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ nhọc. Ta về đây làm quan đã được hai năm thanh thản yên ổn. Hôm nay nghe nàng nầy nói chuyện, cảm thương cho số phận lưu đầy! Bèn làm một bài thơ dài tặng nàng ta, gồm 616 chữ, gọi là Tỳ bà hành.)
Trang trong tổng số 5 trang (41 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ›Trang sau »Trang cuối
Gửi bởi Vodanhthi ngày 30/01/2009 07:09
1. Về câu thứ ba, rất tiếc hiện tôi không nhớ nguồn, vì đã xem cách nay quá lâu rồi.
2. Nhân tiện nhờ anh Điệp sửa giúp phần âm Việt-Hán câu "Ngũ lăng niên thiếu THANH triền đầu" lại thành "Ngũ lăng niên thiếu TRANH triền đầu"
3. Ở một dị bản khác (mà tôi cũng quên mất là bản nào), có giải thích "triền đầu" là những khúc lụa mà một quan thái giám đưa cho các vũ nữ quấn quanh đầu khi biểu diễn Nghê Thường khúc.
Về hai chữ "triền đầu", tại hạ tìm thì thấy chú thích ở đây có 2 nghĩa: http://www.chinese-tools....o_%E7%BC%A0%E5%A4%B4.html
1. trang sức bằng gấm lụa của nghệ nhân khi biểu diễn
2. gấm lụa do khách xem tặng nghệ nhân
3. về sau dùng phiếm chỉ những lễ vật tặng nghệ nhân
Nếu căn cứ vào văn cảnh, kết hợp với câu tiếp theo "Nhất khúc hồng tiêu bất tri số" thì nghĩa 2 có lẽ là phù hợp nhất. Nhưng tại hạ cũng mò xem trong cuốn "Đường thi tam bách thủ" do Văn Quốc Thư Cục của Đài Loan ấn hành thì cũng chú thích "triền đầu" là 賞歌舞者的錢, khiến tại hạ không khỏi phân vân.
Gửi bởi Vodanhthi ngày 30/01/2009 20:22
Tôi vẫn nghĩ giống như anh, rằng "triền đầu" ở đây là những vật tặng cho ca nữ. Dứt khoát như thế, chứ không phải là "lấy lụa vấn quanh đầu". Lần vừa rồi do tôi diễn đạt chưa đầy đủ. Lẽ ra tôi phải nói là trong phần chú thích pop-up, ta nhắc tí xíu về lệ triền đầu do hoạn quan Ngư Triều Ân bày ra, theo Quách Tử Nghi truyện, trong sách Cựu Đường thư.
P.S: Tôi không rành chữ Hán, chỉ đọc trích dẫn bản dịch thôi, mà cũng lâu lắm rồi.
Gửi bởi Vanachi ngày 01/02/2009 06:28
Vâng, đúng ra là hôm trước tại hạ định viết "nghĩa 2 có lẽ là phù hợp nhất" nhưng không hiểu gõ nhầm làm sao lại ghi là "nghĩa 1", nay sửa lại.
Theo chỉ dẫn của tiên sinh, tại hạ có tìm thử thì được một mẩu trong Quách Tử Nghi truyện như sau, không rõ có trúng ý của tiên sinh không:
"Tháng hai năm Đại Lịch thứ 2, Tử Nghi nhập triều, tể tướng Nguyên Tái, Vương Tấn, bộc xạ Bùi Miện, Kinh Triệu doãn Lê Cán, nội thị Ngư Triều Ân xuất tổng cộng 30 vạn thiết yến tại nhà Tử Nghi, vua Đại Tông ban hai trăm tấm gấm lụa để dùng làm khăn vấn (triền đầu phí)."
賞歌舞者的錢 trong phần trước tại hạ viết nghĩa là "tiền thưởng cho người ca múa". Tại hạ tạm chú thích ở đây là tiền hoặc tặng vật chung chung vậy.
1. Rất cảm kích trước sự chu đáo của anh Điệp.
2. Nhân tiện xin anh lưu ý thêm cho một chữ ở đoạn "Âu a triều triết": một dị bản không viết 晰 mà là 哳, có vẻ đúng hơn.
Cảm ơn anh Điệp.
Gửi bởi Vanachi ngày 04/02/2009 02:10
Vâng, tại hạ đã sửa tiếp.
Em thấy bác sửa đi sửa lại những 13 lần, đặng biết bác là người chỉn chu cẩn thận, quyết không phải người cẩu thả qua loa, một chữ viết ra đều có cân nhắc. Vậy nên có một số chỗ em phân vân, cần phải hỏi lại cho rõ.
1.Câu "Say những luống ngại CHI chia rẽ", theo em hiểu phải là "Say những luống ngại KHI chia rẽ" mới đúng. Bởi, "ngại chi" nghĩa là "không ngại", không thực sát với nguyên văn "tửu bất thành hoan thảm tương biệt".
2. Câu "Giáo phường đệ nhất CHỈ đà chép tên". Hình như phải là "Giáo phường đệ nhất SỔ đà chép tên". Nguyên văn: "Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ", chữ "bộ" này là chỉ sổ sách được đóng thành bộ, nên dịch bằng "sổ đà chép tên" là hợp.
3. Câu "Gã thiện tài SO PHEN TỪNG khúc". Ứng với câu nguyên văn là: "Khúc bãi tằng giao thiện tài phục". Câu này, theo em tra cứu lại ở một số bản khác, thấy viết là : "Gã thiện tài SỢ PHEN DỪNG khúc".
4. Câu "Biết bao THÊ THẢM chuốc mua tiếng đàn". Rõ ràng, như bác đã giải thích chữ "triền đầu" là lụa để thưởng cho con hát, vậy thì câu này đúng phải là "Biết bao THE THẮM chuốc mua tiếng đàn" chứ ạ.
5. Câu "Khách trọng lợi khinh đường LY KHÁCH". "LY CÁCH" mới đúng chứ ạ?
Vài chỗ em phân vân trong bản dịch mà bác dẫn ra như thế. Mong bác xem lại hộ cho. Hoặc giả những chỗ trên bác viết là đúng, và có căn cứ rõ ràng, mong bác dẫn ra cho bọn em chia sẻ cùng.
Ngoài ra, tưởng chuyện này cũng đã được chứng minh đầy đủ rồi, dịch giả của bài Tỳ Bà Hành này là Phan Huy THỰC, chứ không phải Phan Huy Vịnh.
Gửi bởi thechi ngày 25/06/2009 21:56
Trước hết là em mạo muội căn cứ vào tư liệu của em, mà cho rằng câu "Khúc bãi tằng giao thiện tài phục" được Phan Huy Thực dịch thành "Gã thiện tài sợ phen dừng khúc". Nhân đó, mang cái băn khoăn của mình về chữ "sợ" ra đây, mong được các bậc cao nhân chỉ giáo thêm cho.
Câu "Khúc bãi tằng giao thiện tài phục", bác Vanachi cho biết thêm, có bản chép "Khúc bãi thường giao thiện tài phục" hoặc "Khúc bãi năng giao thiện tài phục". Dù chép là chữ nào, thì đại ý cũng là "Khi dừng khúc thường/từng khiến bọn thiện tài (nhạc sư) phải nể phục". Các bản dịch Việt văn khác của bài Tỳ Bà Hành đều dịch theo ý này (như bác Vanachi đã liệt kê). Riêng Phan Huy Thực lại dịch thành "Gã thiện tài SỢ phen dừng khúc".
Tại sao lại là "SỢ", chứ không phải là chữ nào khác? Em to gan nghĩ rằng, nếu thay bằng chữ "phục" (hoặc chữ "nể") cũng không ảnh hưởng đến nhịp điệu thơ, mà lại sát nghĩa. "Gã thiện tài phục phen dừng khúc/Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô".
Không biết trong tiếng Việt ta, chữ "SỢ" có khi nào mang nghĩa là "nể phục" không nhỉ?
Nhưng em biết câu tục ngữ "Khôn cho người ta rái (=sợ), dại cho người ta thương", thì chữ "rái (=sợ) có thể giải nghĩa được thành "nể phục".
Xin đươc sửa câu: "Biết bao thê thảm chuốc mua tiếng đàn " thành câu:
"Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn" mới đúng
Gửi bởi Vanachi ngày 30/06/2009 08:52
Cảm ơn hai bác đã xem lại kỹ bản dịch (đúng là đã được chứng minh là của Phan Huy Thực, tôi đã sửa lại tên người dịch, bạn nào cần tìm hiểu có thể tham khảo thêm tại đây: http://www.thivien.net/viewwriting.php?ID=615 ). Trước hết ở trên ghi "đã sửa 13 lần" đó là số lần sửa nguyên tác bài thơ, còn bản dịch này mới chỉ được sửa một lần, nay là lần thứ 2. Bản dịch của PHT vốn cũng khá cũ, lại viết bằng chữ Nôm nên chuyện văn bản cũng vấp phải nhiều vấn đề. Tôi mới tìm lại thì thấy ở trang của Viện Việt Học có bản dịch này và được giới thiệu như sau: ...Bởi không tìm ra bản Nôm của Phan Huy Vịnh, chúng tôi bỏ ngỏ mấy chỗ sai biệt trong bản phiên Quốc ngữ trong khi so sánh với các bản của Dương Quảng Hàm (Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển, tr. 255-257) và Trần Trọng San (Đường Thi, q. 2) mong có dịp bổ chính. Sau cùng, xin cám ơn giáo sư Trần Huy Bích đã đọc bản thảo và gởi cho nhiều đề nghị đáng trân trọng.
Tôi đã lấy bản dịch này sửa thay cho bản dịch cũ của Thi Viện. So với bản cũ có rất nhiều chỗ khác biệt. Lời giới thiệu ở trên cũng không khẳng định văn bản đó là chính xác hoàn toàn, và cũng không nói rõ nguồn tham khảo từ đâu, nhưng tạm thời đây là nguồn có thể tin cậy nhất của tôi hiện nay.
Bác thechi không rõ tham khảo từ nguồn nào, nếu có những căn cứ xác đáng tôi sẽ sửa lại theo đó.
Để tham khảo, tôi sẽ gửi lại dưới đây bản cũ lấy nguồn từ "Việt Nam thi văn hợp tuyển" của Dương Quảng Hàm.
Trang trong tổng số 5 trang (41 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ›Trang sau »Trang cuối