Bản dịch của Phan Ngọc

Năm thứ hai, mùa thu, Chi Đức (757)
Tháng tám nhuần, mồng một, ngày lành.
Đỗ toan lên Bắc, xuất hành,
Vội vàng thăm hỏi gia đình ra sao.
Gặp thời buổi gian lao vất vả,
Cả triều đình, thôn dã rộn ràng.
Thẹn mình ơn nặng đã mang,
Vua còn cho phép lên đường về thăm.
Đến trước thềm lạy xin từ giã,
Lòng đắn đo không nỡ bước ra.
Tuy can gián kém người ta,
Vẫn lo hoàng thượng lỡ mà sai chăng?
Nhà vua bậc trung hưng xứng đáng,
Mọi việc lo đều đúng cả rồi.
Đông Hồ làm phản chưa thôi,
Làm tôi, thân Đỗ chẳng nguôi căm thù.
Dạ bồn chồn, giã từ cửa khuyết,
Gạt lệ thầm khôn xiết lo âu.
Đất trời còn lắm thương đau,
Trăm điều lo lắng lúc nào mới nguôi?
Bước lủi thủi cố noi đường ruộng,
Khói bếp tàn, cảnh huống vắng teo.
Người mang thương tích rất nhiều,
Máu tuôn rên rỉ la kêu trên đường!
Ngoảnh cổ lại, Phượng Tường vừa bỏ,
Trong chiều tà, cờ đỏ nhấp nhô.
Đường đi hết núi lại gò,
Ngổn ngang vũng nước đào cho ngựa dùng.
Vào đất Phần, cảnh đồng đất trũng,
Nước sông Kinh chảy rộng mông mênh.
Trước ta, hổ vẫn rập rình,
Tiếng gầm như xé rừng xanh, núi dài!
Mùa thu này cúc hoa vừa nở,
Dấu xe in trên đó rành rành.
Hứng cao vút tận mây xanh,
Cảnh u nhàn đó thật tình dễ yêu.
Trái mọc núi phần nhiều đều nhỏ,
Dây leo xen với quả giẻ gai.
Quả trông đỏ chót son tươi,
Quả đen lay láy như người ta sơn.
Mưa gia ơn thấm nhuần đầy đủ,
Ngọt, đắng đều có quả như nhau.
Bâng khuâng nhớ cảnh Nguồn Đào,
Ngậm ngùi riêng tiếc mình sao vụng về,
Mắt hướng về Phu Châu, chốn ấy,
Hang ghềnh trông, khi thấy khi không.
Thầy đi đã đến bến sông,
Tớ còn vắt vẻo lưng chừng ngọn cây.
Khóm dâu vàng đâu đây cú rúc,
Chuột đồng còn lúc nhúc cửa hang,
Nửa đêm, qua bãi chiến trường,
Ánh trăng lạnh chiếu đống xương trắng tàn.
Trăm vạn quân Đồng Quan vừa đóng,
Tan rã sao mà chóng thế kia!
Đất Tần một nửa dân ta,
Bỗng dưng đều hoá thành ma cả rồi!
Ta đã rơi vào đời gió bụi,
Về đến nhà, tóc đổi hoa râm.
Mái tranh mới cách một năm,
Vợ con quần áo vá chằm trăm nơi!
Khóc thảm thiết, cây đồi vang vọng,
Suối khe buồn nghẹn giọng hoạ theo.
Thằng con, quý cực nuông chiều,
Thương thay, tuyết chẳng trắng đều bằng da!
Nó thấy cha, quay đầu khóc nức,
Chân lấm lem chẳng tất tiếc gì.
Đầu giường hai gái đứng lì,
Áo quá đầu gối, vá thì trăm nơi!
Cắt tranh thêu để may vá vội,
Đường thêu nhăn chắp nối sai rồi!
Thiên ngô, phượng núi nực cười,
Lộn xuôi, lộn ngược trên người các con.
Thân ta già chẳng yên bụng dạ,
Phải trên nôn, dưới tả mấy ngày.
Giờ cha mang lụa về đây,
May cho chúng mặc rét này đỡ run!
Các gói đựng phấn son có đủ,
Đem bầy lên chăn cũ cho nhìn.
Vợ gầy mắt sáng hẳn lên,
Con gái tự chải đầu liền, thơ ngây.
Trong mọi việc làm ngay theo mẹ,
Cũng vuốt ve, tô vẽ luôn tay.
Sáp son mặt cứ vẽ đầy,
Bôi lên nguệch ngoạc, lông mày dài ra.
Được về nhà ngắm trông lũ nhỏ,
Lòng mừng vui, quên cả đói, đau.
Chuyện trò, con túm kéo râu,
Làm sao mắng lũ tí nhau cho đành!
Nhớ ngày giặc giam mình cực khổ,
Nên cứ cười mặc chúng nó trêu.
Được về, hãy cứ vui đều,
Làm ăn sinh sống là điều bàn sau.
Đức vua còn giãi dầu gió bụi,
Lo luyện quân chẳng rỗi một ngày.
Ngẩng xem trời đã đổi thay,
Nhìn xem, yêu khí tràn đầy mênh mông!
Cơn gió lạnh từ Đông Bắc lại,
Hồi Ngột kia đã tới ào ào.
Vua Hồi Ngột giúp, may sao!
Họ quen cưỡi ngựa xông vào hàng quân.
Họ chỉ cần năm ngàn binh sĩ,
Ngựa vạn con, như thế đủ rồi.
Họ cần ít nhưng phải tài,
Dũng cảm, kiên quyết, chẳng ai sánh bằng.
Quân tung ra, như ưng, như cắt,
Phá địch như tên sắt tung bay.
Lòng vua tin chẳng lung lay
Mặc ai dị nghị, chẳng thay đổi nào.
Miền Lạc Dương thu vào như bỡn,
Thành Tràng An chắc chắn lấy về.
Quan quân xin đánh dấn đi,
Nhuệ khí đã sẵn, chớ trì hoãn lâu.
Cả hai châu Từ, Thanh chiếm đứt,
Miền núi non Hằng, Kiệt chiếm sau.
Trời cao, sương móc đã lâu,
Bây giờ chính khí bắt đầu nổi lên.
Năm diệt Hồ giờ bèn tính được,
Tháng bắt Hồ thấy trước hôm nay.
Số Hồ quyết chẳng còn dài,
Kỉ cương đất nước thật may, vẫn còn!
Nhớ ngày xưa, hoảng hồn, vất vả,
Nhưng so xưa, nay đã khác rồi
Bọn gian thần đã hết đời,
Bè gian, đảng ác đến thời phải tan.
Chẳng nhớ xưa nhà Ân, nhà Hạ,
Đát Kỷ cùng Bao Tự mạng vong.
Nhà Chu, nhà Hán trung hưng,
Tuyên Vương, Quang Vũ hết lòng vì dân.
Trần Nguyên Lê tướng quân oanh liệt,
Giơ giáo lên quyết tỏ lòng trung.
Không ông, ai dám dốc lòng,
Nhờ ông, đất nước mới mong có rày.
Điện Đại Đồng buồn thay lạnh lẽo!
Bạch Thú giờ cỏ héo cây khô.
Kinh thành ngóng đợi cờ vua,
Khí thiêng đất nước hướng về cửa cung.
Thần khí các miếu làng còn cả,
Việc chăm nom đâu lẽ dám lơ.
Thái Tông lừng lẫy cơ đồ,
Công nghiệp to lớn phải lo giữ gìn.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]