☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Một số bài dịch khác cùng bài thơ
Một số bài dịch khác cùng dịch giả
Đất Đỗ Lăng có tên áo vải,
Đã già mà còn dại với ngu,
Lập thân sao quá khù khờ,
Thế mà Tắc, Tiết người xưa mong cùng!
Để rồi việc rối tung, tan tác,
Cho đến khi đầu bạc vẫn không.
Nghĩ đời, hòm đậy mới xong,
Cho nên chí ấy trong lòng vẫn nung.
Quanh năm kẻ bần cùng, thương xót,
Trong tim gan cùng ruột bừng bừng.
Cười ngạo, mấy tên học cùng,
Nhưng tôi càng tỏ nỗi lòng khăng khăng.
Chí sông biển vẫn hằng mong mỏi,
Ngày tháng dài đâu mải rong chơi.
Thời Nghiêu, Thuấn mình chào đời,
Nỡ nào ta lại xa rời công danh.
Nơi cung vua đã đành đầy đủ,
Chẳng khi nào lại thiếu cột, rường.
Quì, hoắc lòng vẫn hướng dương,
Tính vật vẫn thế không đường đổi thay.
Thử nhìn coi cái bày ong, kiến,
Chỉ quanh co trong chốn hốc hang.
Cá kình vẫn quyết một lòng,
Làm sao để được vẫy vùng bể khơi.
Ấy thế mà một đời luẩn quẩn,
Việc cầu xin thấy bẩn làm sao.
Đến giờ thân vẫn lao đao,
Cam tâm chịu cảnh chôn vào bụi tro.
Rồi so với Sào, Do thấy thẹn,
Khí tiết cao chẳng khiến đổi thay.
Rượu kia cứ ních cho say,
Nghêu ngao cũng chẳng dứt ngay được buồn.
Cỏ hoa lúc năm tàn, xơ xác,
Trên đỉnh cao gió giật thấy kinh.
Vòm trời u ám chênh vênh,
Nửa đêm thân khách cất mình ra đi.
Sương thấm lạnh, áo thì giải tuột,
Ngón tay tê cố cột chẳng xong.
Qua Ly Sơn, sớm tinh sương,
Đỉnh cao chót vót, có giường nhà vua!
Hơi rực đỏ chói loà trời rét,
Lần mò theo hang trượt hố trơn.
Dao Trì ấm, bóng chập chờn,
Đạo quân phòng vệ giáo gươm sáng ngời.
Vua tôi cùng vui chơi, xum họp,
Tiếng nhạc kia từng nhịp vang lừng.
Được tắm: kẻ giải mũ chùng,
Còn anh quần cụt chớ hòng miếng ăn.
Trước bệ rồng đem phân phát lụa,
Loại dệt này vốn của gái nghèo.
Thân chồng chịu vết roi hèo,
Thu về vội gửi tiến vào trong cung.
Ơn vua ban từng thùng, từng súc,
Ý muốn cho nước được vui vầy.
Làm quan há quên điều này,
Vua nào có nỡ phí hoài của dân.
Triều đình vốn đông chân tay giỏi,
Khiến người nhân cũng phải dè chừng.
Huống chi nghe chuyện kho vàng,
Các nhà Vệ, Hoắc chuyển sang cả rồi!
Lại có thần tiên ngồi giữa sảnh,
Làn khói mây cùng ánh ngọc lồng.
Làm ấm khách, có áo lông,
Sáo êm cùng với đàn trong trẻo hoà.
Khách ăn, chân lạc đà thơm ngát,
Nước uống có chanh quất đậm mùi.
Cửa son rượu thịt nồng hơi,
Ngoài đường trơ nắm xương người chết run.
So sướng khổ chỉ gần gang tấc,
Kể chi thêm tấm tức lòng này.
Xe theo Kinh, Vị tới đây,
Vừa qua đò lại đổi ngay hướng liền.
Từ phía tây dòng triền đổ tới,
Hút mắt trông chới với trên cao.
Không Đồng lại tưởng lạc vào,
Cột trời những sợ đổ nhào ngay đây.
Cầu sông thật là may còn bắc,
Đà, ván kêu răng rắc thấy ghê.
Vịn nhau lũ khách liều đi,
Lòng sông rộng quá, cách chi qua giờ.
Vợ già hiện nương nhờ huyện nọ,
Mười miệng ăn mưa gió cách xa.
Ai người mãi mãi làm ngơ,
Dù cho đói khát có nhau, tìm về.
Vừa tới cửa đã nghe tức tưởi,
Đứa con thơ bị đói chết rồi!
Sao ta chẳng khỏi ngậm ngùi,
Hàng xóm thấy vậy sụt sùi kêu than.
Thẹn cho mình cái thân làm bố,
Thiếu miếng ăn con nhỏ chết tong.
Ai ngờ mùa vừa gặt xong,
Vì nghèo, cái đói sảy trong lúc này.
Đời mình đã được may khỏi thuế,
Tên lại không biên chế lính vua.
Thế mà còn chịu cay chua,
Người thường chẳng trách te tua trăm chiều.
Nghĩ người thất nghiệp nhiều vô kể,
Lại còn bao lính thú phương xa.
Lo cao như núi Nam kia,
Lòng này rối rắm, gỡ ra được nào!