Bản dịch của Phạm Doanh

Quan tư đồ cuối đời Thiên Bảo,
Quân Tấn Dương trừ bạo bắc phương.
Thành ta ngựa Hồ phá tung,
Rầu rĩ ngoài mặt, trong lòng xốn xang.
Lòng người vững sánh ngang núi Thái,
Kế Bắc, bên hông phải cách ngăn.
Không khí phương bắc vùng lên,
Cơ nghiệp vua chúa dân đen thấy rồi.
Hai vua tới phía tây khóc nức,
Miếu thờ sao quá mức nát tan.
Hà Dương chưa hết loạn quân,
Tư Minh giả bộ gian ngoan xin hàng.
Từ Kiệt Thạch tai ương lại tới,
Khắp càn khôn lửa cháy ngất trời.
Lộc Sơn để lại tiếng cười,
Báo công ông lại có thời hiến dâng.
Nhờ công lao, phong vương họ khác,
Nghe tin, bọn rợ nhóc thất kinh.
Nơi Hà Biện đóng tinh binh,
Một vùng ngàn dặm, tình hình yên vui.
Vo ve cả đàn ruồi xanh nọ,
Một lá trong mưa gió mùa thu.
Nhà vua chưa trở lại triều,
Mà nước mắt chết có điều lao xao.
Mái nhà lớn, cột cao lại bỏ,
Bức thành dài mà phá chòi canh.
Khi sống quạt trắng tung hoành,
Đến khi nằm xuống lênh đênh quan tài.
Vẻ hào hiệp khiến người suy ngẫm,
Bao đau buồn trong đám quan to.
Toàn quân uy tín nay mờ,
Nỗi đau liệt sĩ lù lù đống cao.
Quan viết sử bằng vào ngọn bút,
Hãy đem mà rửa gột tráp hòm.
Tôi nay khóc nấm mộ tàn,
Đường về rẽ lối xuống nam kẹt thuyền.
Cứ luẩn quẩn dạ buồn mãi mãi,
Chưa qua, vượt không lợi, rõ ràng.
Ấy ai là kẻ long đong,
Kẽm Ba Đông, nước mắt ròng ròng sa.