Trung lang sau hồi Kinh khắc đá,
Lối bát phân bỏ xó không sài.
Nung lửa ông Cố đem dùi,
Sức bút tưởng phá tơi bời đất hoang.
Nhớ Khai Nguyên huy hoàng thời đại,
Ông cùng với Hàn, Thái đua tài.
Huyền tông thích lối chữ này,
Cả ba đều được vời ngay vào chầu.
Trát vua nhờ đó lưu truyền lẹ,
Lời tuyên dương không lẽ dối sao.
Ba người cùng lúc bước vào,
Ơn vua ban phát dễ hầu có hai.
Tài ông Cố so vai Hàn, Thái,
Kiểu chữ chân mắt dõi thấy ngay.
Dâng vua, chỉ nội trong ngày
Dày công nghiên cứu, càng hay tay nghề.
Ông cùng tôi bạn bè giao thiệp,
Danh lợi kia chẳng đắp vào tai.
Nghĩ lại năm đã hai mươi,
Trường-an thuở đó vui chơi rượu nồng.
Nhà khanh tướng ta cùng hát đổng,
Dấu văn chùa, sở cũng được trưng.
Đặt tôi ngang với Mã, Dương,
Tới già vẫn giữ lòng thương chẳng rời.
Khi ngựa nòi bỏ rơi một só,
Dây cương vàng tất bỏ đi thôi.
Bàn về bè bạn khôn nguôi,
Tuổi già đâu dám buông xuôi được nào.
Xưa nay việc tào lao lật lọng,
Gặp nhau đây mắt đọng lệ sa.
Hãy nhìn bọn quan lớn kia,
Nào ai có dáng hào hoa nên người.
Tài vừa hết hình hài cũng nát,
Dơ chức quan, bệnh khát gây nên.
Vẫn như xưa các người quen,
Gặp lúc khốn quẫn mới bàn trước sau.
Tôi thân lão bệnh đau đành chịu,
Ông người ôm chí cứu vớt đời.
Áo cơm há phải miệt mài,
Khiến cho sắc mặt kém tươi bội phần.
Đi xa tất gặp thêm đau khổ,
Phải tuân theo ý của đám đông.
Thuyền bè trôi nổi bềnh bồng,
Nuốt người cứ chực, thuồng luồng rượt theo.
Lại còn thêm bao nhiêu giặc nước,
Nhất là cơn gió ngược cản thuyền.
Nơi xa loạn lạc triền miên,
Cứ nổi lên giết quan trên đều đều.
Ông lo các chư hầu gần biển,
Cốt làm sao mọi chuyện được yên.
Dân so với nước là nền,
Cá đói mà nhử mồi ngon, chớ dùng.
Hỏi thăm tới vết thương càng ứ,
Xin báo lên cùng sứ triều đình.
Người này được chọn rất rành,
Biết trau dồi để tính tình càng cao.
Lòng vẫn lo cung cầu chiến phí,
Hiền khác ngu do chỉ đó thôi.
Người ngay ghét chuyện lấy rồi,
Kẻ tài suy nghĩ rạch ròi, phân minh.
Tặng ông bài Mãnh hổ hành,
Lòng đau như cắt rời thành ra đi.