Bản dịch của Phạm Doanh

Nhớ thuở tuổi niên thiếu,
Đi lại chốn văn chương.
Bọn các ông Thôi, Nguỵ,
Coi ta như Ban, Dương.
Bảy tuổi ý đã vững,
Mở miệng ca phượng hoàng.
Chín tuổi viết chữ lớn,
Hành văn có đặc trưng.
Tính phóng khoáng ưa rượu,
Lòng ghét thói lật lường.
Tránh xa bạn thuở nhỏ,
Kết bạn tóc nhuốm sương.
Uống say nhìn tám phía,
Đời tục sao mênh mang.
Đông đài Cô Tô tới,
Có chí vượt đại dương.
Tới nay còn ân hận,
Chẳng đến được Phù Tang.
Vương, Tạ phong lưu khuất,
Hạp Lư: nấm mồ hoang.
Thành Kiếm Trì xiêu vẹo,
Sen Trường Châu nức hương.
Bắc Xương Môn vòi vọi,
Toà Thanh Miếu lồng gương.
Nghĩ đến Ngô Thái Bá,
Việc cũ lệ hai hàng.
Gối kiếm, nhớ Câu Tiễn,
Qua sông tưởng Thuỷ Hoàng.
Nghe dao dấu bụng cá,
Cười ấn loè bên đường.
Đẹp tuyệt trần gái Việt,
Mát tháng năm, hồ Gương.
Diễm Khê nước non lạ,
Khi về còn vấn vương.
Cánh buồm lướt Thiên Mụ,
Vừa dịp kỳ thi hương.
Khí: Khuất, Giả ăn đứt,
Lòng: Tào, Lưu coi thường.
Giám khảo không vừa ý,
Âm thầm lánh sảnh đường.
Rong chơi vùng Tề, Triệu,
Ăn mặc thật ngang tàng.
Đài Tùng, mùa xuân vịnh,
Gò Thanh săn mùa đông.
Rừng Trám Đen thả cắt,
Đỉnh tuyết đuổi thú hoang.
Phi ngựa, buông cương bắn,
Tên vèo: chết thu thương.
Tô hầu vịn yên khoái,
Tưởng như giắt Cát Cường.
Tám chín năm thoả ý,
Phía tây tới Hàm Dương.
Thưởng văn toàn tay giỏi,
Giao du cùng hầu vương.
Áo dài dự lễ lớn,
Dâng phú điện Minh Quang.
Vua quên bữa cho gọi,
Cùng các quan xênh xang.
Lúc rời hai tay trắng,
Say vùi, mặc hành, tàng!
Áo cừu nào lành mãi,
Rượu hoài tóc điểm sương.
Đỗ Khúc nay khác trước,
Bốn bên đầy bạch dương.
Ở lâu hàng xóm trọng,
Sống, chết ngày hoang mang.
Cửa son cứ dành giật,
Cả họ mắc tai ương.
Ngựa vua ngốn thóc đậu,
Gà quan xơi đạo lương.
Nêu một rõ trăm tật,
Ôn xưa hiểu hưng vong.
Hà Bắc nổi gió bụi,
Mân Sơn lánh khỏi vòng.
Hai cung đều nghiêm cấm,
Vạn dặm cùng ngóng trông.
Không Đồng khí độc bốc,
Thiếu Hải cỏ uá vàng.
Hạ Vũ truyền ngôi báu,
Trác lộc, dự chiến trướng.
Cờ lọng che rợp núi,
Hổ báo nuốt sài lang.
Nanh vuốt vồ mồi hụt,
Rợ Hồ càng ngược ngang.
Quân ta đã kiệt sức,
Điêu tàn bệnh thấu xương.
Làm quan tất phò chúa,
Lo, giận lòng bừng bừng.
Trên e chín miếu trụi,
Dưới nghĩ vạn dân thương.
Lúc đó quì trên chiếu,
Can gián tận ngai vàng.
Vua nhục, há sợ chết,
Nổi giận, thoát tai ương.
Chí tôn vốn rộng lượng,
Làng nước lại khang trang.
Điêu tàn khóc xã tắc,
Sụt sùi chầu Vị Ương.
Phận hèn hết đường nói,
Thân lão lại lang thang.
Tâm can không thể lộ,
Lông cánh hết dọc ngang.
Gió thu lùa hang vắng,
Huệ xanh nhỏ chút hương.
Thưởng công: Chi Thôi tránh,
Lão chài rửa sông Thương.
Vinh quang đạt sự nghiệp,
Đối xử thành lạnh lùng.
Ta coi ông Phạm Lãi,
Tài đức thật phi thường.
Bọn giặc chưa dẹp được,
Thôi chờ bậc ngoan cường!