Bản dịch của Phạm Doanh

Thuở trùng hưng, Sơn Đông giải phóng,
Đêm ngày điện tin thắng truyền ra.
Thuyền nan sông rộng vượt qua,
Thế giặc phá vỡ như là chẻ tre.
Còn Nghiệp Thành thu về mấy chốc,
Viên chỉ huy khu bắc bao công.
Nơi kinh đô, đầy ngựa ròng,
Hồi Hột phè phỡn trong cung Bồ Đào.
Hải Đại, nhờ ơn cao, yên ổn,
Nhớ lúc vua ở chốn Không Đồng.
Ba thu liền, hành khúc vang,
Nơi nào quân đến cỏ thường dạt theo!
Thành Vương, công đã nhiều, cẩn tắc,
Tể tướng Quách, đảm lược hơn người.
Quan tư đồ, gương sáng ngời,
Thượng thư khí phách như trời thu cao.
Nhờ thời thế, anh hào xuất hiện,
Đất nước yên: một chuyến cứu đời.
Về đông cá cũ quen mùi,
Xuôi nam như nhạn tìm nơi ấm lòng.
Mũ áo chầu, một khung cảnh nổi,
Cung điện vua, hoa khói tôn nghiêm.
Phượng chực ngày, hạc chạy đêm,
Gà vừa báo sớm đã lên chầu rồi.
Dựa hơi vua bao người quyền thế,
Biết bao kẻ qui chế vương hầu.
Nhờ ơn vua, hãy nghĩ sâu,
Vận may mang đến chớ đâu mình tài!
Quan Trung, Tiêu Hà vai thừa tướng,
Lại thêm dưới trướng: Trương Lương.
Ông Trương từng trải gió sương,
Thân cao chín thước, đường đường nam nhi.
Bước công danh một khi gặp hội,
Ra sức làm mới nổi tài hay.
Áo xanh, ngựa trắng bó tay,
Sau thời Hán, mãi đến nay thái bình!
Dù nước nhỏ cúi mình thuần phục,
Bao điềm lành, phong tục tâu lên.
Vòng ngọc trắng, vật của tiên,
Lọ bạc tìm được ở miền núi xa.
Khúc "Tử chi" ngừng ca, ẩn giả,
Văn nhân đều cùng tả "Sông trong".
Nhà nông, mưa nắng ngóng trông,
Chim bồ cốc giục hãy trồng kịp xuân!
Sông Kỳ, hỡi đoàn quân, trở lại,
Nơi phương nam bao gái mong chồng.
Sông Ngân ai vít xuống cùng,
Rửa sạch vũ khí thôi dùng từ đây.