Trung hưng các tướng lấy Sơn Đông,
Thắng trận tin đưa sớm, tối trùng.
Đem thế chẻ tre đè mạng giặc,
Mượn tầu lá sậy vượt dòng sông.
Sóc phương lập được bao công cả,
Nghiệp quận nay mai sẽ hạ xong.
Hồi Ngột đưa thêm quân trợ thuận,
Kinh sư đều cưỡi ngựa truy phong.
Đã mừng oai chúa vang Tề, Lỗ,
Còn nhớ xe loan tới Không Đồng.
Sáo thổi ba năm quan quan ải lạnh.
Quân đồn muôn nước gió cây rung!
Thành Vương công lớn long càng nhỏ,
Quách tướng mưu sâu đời hiếm có.
Thượng thư khí khái nhất trời thu,
Tư đồ sang suốt treo gương tỏ.
Hào kiệt vài tay ra giúp đời,
Kiền khôn sắp đặt đâu ra đó.
Sang đông khỏi nhớ cá quê nhà,
Về nam đã thấy chim yên tổ.
Áo xiêm thấm đượm ánh xuân xanh,
Hoa khói điểm tô cung cấm đỏ.
Xe hạc đêm chờ kiệu phượng về,
Canh gà sớm viếng lầu rồng ngủ.
Víu phượng, vin rồng khéo bảo nhau,
Trong đời vô số kẻ sang giàu!
Gặp thời xin chớ khoe mình giỏi,
Nên nhớ ơn vua nặng đến đâu!
Trong ải đã dùng Tiêu tướng quốc,
Dưới màn lại sẵn Trương Lưu hầu.
Ông Trương người của miền sông biển,
Chín thước mình cao, bạc tóc râu!
Gặp hội gió mây ra giúp nước,
Nước nguy mới thấy rõ mưa cao.
Áo xanh, ngựa bạch còn chi nữa,
Đời trị, dân yên lại bắt đầu!
Gang trời, tấc đất đều vào cống,
Triệu lạ, điềm lành nhiều lủng nhủng!
Có nước đem dâng vòng "bạch hoàn",
Trong non lại được chum "ngân úng".
Thi nhân vịnh mãi cảnh sông trong,
Ẩn sĩ thiết gì cỏ tiên rụng.
Đâu đấy nhà nông thấy khát mưa,
Véo von chim nội giục: gieo giống!
Trai tài mặt trận liệu mau về!
Vợ trẻ bên thành đương tiếc mộng.
Muốn kéo dòng Ngân rửa giáo gươm,
Xếp xó từ đây không động dụng!