Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Sau rằm tháng chín mát bầu trời,
U ám mặt trời nhạt nắng mai.
Thân bị tù đày đầu tóc rối,
Chiếc giường cũ nát thẩn thờ ngồi.
Thổi vù gió lạnh bay quần áo,
Lính lệ tới nơi la hét vang,
Thúc giục oang oang đến sảnh đường.
Vội lê khăn áo không ngay ngắn,
Lính canh vào cửa kèm hai hàng.
Phường phố người xem vây đông nghịt,
Quan lớn bên trên dưới bác đề,
Cái roi song lớn thật là dài.
Hỏi tra hình cụ bày la liệt,
Mình rắn đét roi da tái xanh,
Đờ cứng tay chân lòng bất ổn,
Tù nhân nằm duỗi mặt màu xanh.
Ngoái đầu trở lại mắt dò xét,
Hơi độc lại xông đến bàng quang.
Tra tấn cứng đờ cả miệng lưỡi,
Kêu trời vật vã khổ là oan,
Tiếng quan thét lớn rường nhà động,
Như chớp loáng roi múa tứ tung.
Thế tựa ngóc lên hai rồng quật,
Dường như nước lạnh sục sôi bung.
Một đôi sừng sững cọc kia đứng,
Mấy dãy hành lang tiếng khóc than,
Ôi cánh hải đường tan nát hết,
Kể chi hương sắc thành Xương Châu.
Trời đã về chiều thăm thẳm sầu,
Vì ta góc điện toả sương khói,
Roi song buông xuống đánh hồi lâu,
Tay chắp ruột mềm lòng vướng sầu.
Được mất ở đời đều mệnh ra,
Như người mặt mũi sao phiền ta.
Nợ nhà ơn nước còn chưa trả,
Đâu chết đại nhân văn học nhà.
Hỡi roi song, mầy có thấy:
Phía nam sông Đức Giang
Trên đỉnh núi Nguyệt Hằng
Cây bách cây tùng đang dỡ chết,
Giữa trời mặc buốt giá hiên ngang.
Có người thợ giỏi biết về nó,
Bồ kết, long não có đáng gì
Sao lại nỡ lòng chặt đốn đi.