Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Ông già Tân Phong tám tám tuổi
Đầu tóc mày râu như tuyết gội
Đứa chít dìu đi trước quán hàng
Tay cụt, tay nương vai chít nội
Hỏi ông: “Tay cụt mấy năm nay?”
Lại hỏi: “Vì sao cụ cụt tay?”
Ông đáp: “Tân Phong vốn quê huyện
Sinh nhằm triều thánh không chinh chiến
Quen nghe đàn hát chốn Vườn Lê
Cung kiếm đao thương chưa biết đến
Bỗng thời Thiên Bảo đại trưng binh
Nhà cứ ba đinh bắt một đinh
Bắt được xua đi đâu đó mất
Vân Nam muôn dặm phải tòng chinh...
Vân Nam nghe có dòng Lô ác
Mùa rụng hoa tiêu hơi độc tác
Quân lội qua sông nước bỏng sôi
Mười mạng, chưa qua vài mạng thác
Bắc xóm nam thôn khóc xót xa
Chồng lìa cách vợ, con lìa cha
Rằng vạn nghìn người đi đánh Mán
Trước sau không một kẻ về nhà
Thuở ấy lão vừa hăm bốn tuổi
Bộ Binh đưa giấy biên tên gọi
Đêm khuya chẳng dám để ai hay
Lén đập gãy tay bằng đá cuội
Giương nỏ cung cờ chẳng thể làm
Từ rày thôi khỏi tới Vân Nam
Gân dập xương tan đau lắm chớ
Nhưng mong được thải về quê ở
Gãy tay giờ sáu chục năm tròn
Một tay tuy mất, một thân còn
Nay cứ đêm nào mưa gió lạnh
Suốt sáng nằm đau chẳng ngủ ngon
Chẳng ngủ ngon, không tiếc hối
Mừng chút thân già còn sống nổi
Nếu không, thuở ấy dọc sông Lô
Bay hồn, bỏ rạc nấm xương khô
Làm quỷ Vân Nam mơ xóm cũ
Trên mồ muôn xác khóc hu hu!”
Hãy nhớ ghi lời ông cụ
Anh chẳng nghe:
Tướng triều Khai Nguyên Tống Khai Phủ
Không thưởng biên công, ngừa độc vũ
Lại chẳng nghe:
Tướng triều Thiên Bảo Dương Quốc Trung
Muốn cầu ân sủng, lập biên công
Công chửa thấy chi, dân đã oán
Hỏi ông tay gãy huyện Tân Phong...

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]