Bản dịch của Hà Như
Lớn lao thay! Thánh triều ta, Đức Thái Tổ Cao Hoàng đế, trời ban trí dũng, dựng xây nghiệp lớn, diệt trừ tàn bạo, cứu dân khỏi lầm than. Khi vũ công đã ổn định, văn đức mở mang, nhằm thu nạp anh tài, đổi mới chính trị, bèn xuống chiếu cho khắp nơi xây dựng trường học, bồi dưỡng nhân tài. Trong kinh đô có Quốc Tử Giám, ngoài các phủ có trường học. Người đích thân chọn con cháu các quan và thường dân tuấn tú vào làm học sinh các cục Nhập thị, Cận thị, Ngự tiền và làm giám sinh Quốc Tử Giám. Lại sai quan chuyên trách tuyển rộng trong dân gian, lấy con em các nhà lương thiện vào làm sinh đồ ở các trường phủ, cử thầy dạy bảo, khắc kinh sách ban cho. Nền tảng bồi dưỡng nhân tài thực là rộng lớn. Còn như cách thi kén kẻ sĩ, thì hoặc làm bài nghĩa lý kinh điển, hoặc phú hay luận, hoặc Hoàng thượng ra đề văn sách, rồi tuỳ tài học mà cất nhắc trọng dụng. Thuở ấy, tuy chưa đặt tên khoa tiến sĩ, nhưng thực chất việc đề cao Nho học và phương pháp chọn người thì đại khái đã đủ, đặt nền móng thái bình cho muôn đời bắt đầu từ đấy.
Vẻ vang thay! Đức Thái Tông, Văn Hoàng đế, nối nghiệp lớn, làm rạng nếp xưa, xem xét nhân văn, giáo hoá thiên hạ, coi trọng đạo, sùng Nho là việc hàng đầu, chọn người giỏi, trọng người hiền làm mưu kế tốt. Người nghĩ rằng: trong phép trị nước, mở khoa thi chọn kẻ sĩ là việc phải làm trước hết. Tô điểm cơ đồ, mở mang giáo hoá cho đời thịnh trị là nhờ ở đó. Sửa sang chính sự, sắp đặt mọi việc giáo hoá nhân dân, gây phong tục tốt cũng là nhờ ở đó. Các bậc đế vương xưa làm nên sự nghiệp trị bình không ai không theo con đường ấy.
Đức Thánh Tổ Hoàng đế đã định ra mẫu mực, nhưng chưa kịp thi hành. Nay chính là lúc phải làm rạng rỡ đời trước, khuyến khích đời sau. Năm Nhâm tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1442) bèn mở rộng xuân vi, họp thi kẻ sĩ. Khi ấy có 450 người ứng thí, qua 4 kỳ, có 33 người trúng cách. Quan Hữu tư kê tên dâng lên, Hoàng thượng sai chọn ngày cho vào đối sách ở sân rồng. Lúc ấy, các bề tôi là Lê Văn Linh, Thượng thư Tả bộc xạ làm Đề điệu; Triệu Thái, Ngự sử đài Thị ngự sử làm Giám thí cùng các viên Tuần xước, Thu quyển, Di phong, Đằng lục, Đối độc mỗi người một việc. Ngày mồng hai, tháng hai, Hoàng thượng ngự ở điện Hội Anh thân hành ra đề sách vấn. Ngày hôm sau các quan Độc quyển là các bề tôi Nguyễn Trãi, Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ kiêm Trung thư Quốc sử sự; Nguyễn Mộng Tuân, Trung thư sảnh Trung thư thị lang; Trần Thuấn Du, Nội mật viện Tri viện sự và Nguyễn Tử Tấn, Quốc Tử giám Bác sĩ đem quyển dâng đọc, rồi đệ lên Hoàng thượng xem xét định thứ bậc cao thấp. Hoàng thượng cho Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Như Đổ đỗ Bảng nhãn, Lương Như Hộc đỗ Thám hoa, bọn Trần Văn Huy gồm bảy người đỗ Tiến sĩ và bọn Ngô Sĩ Liên gồm hai mươi ba (23) người đỗ Phụ bảng, những danh hiệu này gọi theo các đời trước.
Ngày mồng 3 tháng 3, xướng danh treo bảng, để tỏ rõ cho đông đảo sĩ phu thấy sự vẻ vang. Ân ban tước trật để biểu dương, cấp mũ đai y phục để tô điểm, cho dự yến Quỳnh lâm để tỏ lòng yêu mến, cho ngựa tốt để về quê để rõ ý ân cần. Sĩ thứ đất Trường An đâu đâu cũng tụ tập lại xem, đều ca ngợi Thánh triều chuộng Nho, xưa nay ít thấy.
Ngày mồng bốn, bọn Trạng nguyên Nguyễn Trực dâng biểu tạ ơn, Ngày mồng chín từ giã Bệ ngọc vinh quy. Đó là khoa đầu tiên của Thánh triều ban ơn long trọng, cho đến nay sĩ phu vẫn còn ca ngợi. Từ đấy về sau, Thánh nối Thần truyền, vẫn theo lệ cũ.
Ngày nay, Đức Thánh thượng trung hưng nghiệp lớn, mở rộng nền văn hoá, chế độ hoàn toàn đổi mới, tiếng tăm lừng lẫy khắp nơi. Nhất là phép chọn kẻ sĩ thì lại càng lưu ý, những việc đời trước đã làm nay noi theo và giữ lấy, những việc đời trước chưa đủ nay mở rộng và làm thêm. Sau khi truyền lô, yết bảng, lại dựng đá đề danh để khuyến khích lâu dài. Phép hay ý tốt đều làm đến nơi đến chốn. Ôi! Tốt đẹp thay.
Nay thấy các khoa thi từ niên hiệu Đại Bảo thứ ba về sau, việc dựng đá đề danh còn thiếu, bọn Quách Đình Bảo, Thượng thư Bộ Lễ kính vâng lệnh trên đem tên những người đỗ, theo thứ bậc khắc vào bia đá và xin đổi Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa làm Tiến sĩ cập đệ; đổi Phụ bảng làm Đồng Tiến sĩ xuất thân, theo thể chế mới. Hoàng thượng cho lời tâu là đúng, sai bọn Thân Nhân Trung chia nhau làm bài ký.
Kẻ bề tôi này kính vâng lời Thánh, vui mừng khôn xiết. Nghĩ rằng: việc dựng bia một khi đã cử hành thì ý tốt cầu hiền tài, mưu thịnh trị của Thánh tổ Thần tông được lưu truyền lâu dài; đó chính là phép lớn để rèn giũa người đời và là điều rất may cho Nho học. Thần dẫu nông cạn vụng về, nhưng đâu dám từ chối, xin kính cẩn chắp tay cúi đầu mà làm bài ký rằng:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng Thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã yêu mến cho khoa danh, lại đề cao bằng tước trật. Ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên ở tháp Nhạn, ban cho danh hiệu Long hổ, bày tiệc Văn hỷ. Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao nhất.
Nay Thánh minh lại cho rằng, chuyện hay việc tốt tuy có một thời lừng lẫy, nhưng lời hay tiếng thơm chưa đủ lưu vẻ sáng lâu dài, cho nên lại dựng đá đề danh đặt ở cửa Hiền Quan, khiến cho kẻ sĩ trông vào mà phấn chấn hâm mộ, rèn luyện danh tiết, gắng sức giúp Hoàng thượng. Há chỉ là chuộng hư danh sính hư văn mà thôi đâu.
Ôi, kẻ sĩ chốn trường ốc lều tranh, phận thật nhỏ mọn mà được triều đình đề cao rất mực như thế, thì họ phải làm thế nào để tự trọng tấm thân mà ra sức báo đáp?
Hãy đem họ tên những người đỗ khoa này mà điểm lại. Có nhiều người đã đem văn học, chính sự ra tô điểm cho cảnh trị bình suốt mấy chục năm, được quốc gia tin dùng. Cũng không phải không có những kẻ vì nhận hối lộ mà hư hỏng, hoặc rơi vào hàng ngũ bọn gian ác, có lẽ vì lúc sống họ chưa được nhìn tấm bia này. Ví thử, hồi đó, được mắt thấy thì lòng thiện tràn đầy, ý xấu bị ngăn chặn, đâu còn dám nảy sinh như vậy được?
Thế thì việc dựng tấm bia đá này ích lợi rất nhiều: kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà gắng, dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa để củng cố mệnh mạch cho Nhà nước. Thánh thần đặt ra đâu phải là vô ích. Ai xem bia, nên hiểu ý sâu này.” Bề tôi kính cẩn làm bài ký.
Phụng trực Đại phu Hàn lâm viện Thừa chỉ, Thần, Thân Nhân Trung vâng sắc soạn.
Cẩn sự lang, Trung thư giám Chính tự, Thần, Nguyễn Tủng vâng sắc viết chữ (chữ chân trên văn bia).
Mậu lâm lang, Kim quang môn Đãi chiếu, Thần, Tô Ngại vâng sắc viết chữ triện (chữ triện trên trán bia).
Hoàng Việt, ngày rằm tháng tám, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 dựng bia (1484)
[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]