25.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong
Thời kỳ: Trung Đường
6 bài trả lời: 6 bản dịch

Đăng bởi Vanachi vào 07/06/2005 14:51, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 29/10/2005 05:01

秦中吟其六-立碑

勳德既下衰,
文章亦陵夷。
但見山中石,
立作路旁碑。
銘勳悉太公,
敘德皆仲尼。
復以多為貴,
千言值萬貲。
為文彼何人,
想見下筆時。
但欲愚者悅,
不思賢者嗤。
豈獨賢者嗤,
仍傳後代疑。
古石蒼苔字,
安知是愧詞!
我聞望江縣,
麴令撫煢嫠,
在官有仁政,
名不聞京師。
身歿欲歸葬,
百姓遮路歧。
攀轅不得歸,
留葬此江湄。
至今道其名,
男女涕皆垂。
無人立碑碣,
唯有邑人知。

 

Tần trung ngâm kỳ 06 - Lập bi

Huân đức ký hạ suy,
Văn chương diệc lăng di.
Đãn kiến sơn trung thạch,
Lập tác lộ bàng bi.
Minh huân tất Thái Công,
Tự đức giai Trọng Ni.
Phục dĩ đa vi quý,
Thiên ngôn trị vạn ty.
Vi văn bỉ hà nhân,
Tưởng kiến hạ bút thì.
Đãn dục ngu giả duyệt,
Bất tư hiền giả xuy.
Khởi độc hiền giả xuy,
Nhưng truyền hậu đại nghi.
Cổ thạch thương đài tự,
An tri thị quý từ!
Ngã văn Vọng Giang huyện,
Cúc lệnh phủ quỳnh ly,
Tại quan hữu nhân chính,
Danh bất văn kinh sư.
Thân một dục quy táng,
Bách tính già lộ kỳ.
Phan viên bất đắc quy,
Lưu táng thử giang my.
Chí kim đạo kỳ danh,
Nam nữ thế giai thuỳ.
Vô nhân lập bi kiệt,
Duy hữu ấp nhân tri.

 

Dịch nghĩa

Công dức đã sút kém
Văn chương cũng suy đồi
Vẫn thấy tấm đá lấy từ trong núi
Dựng thành bia bên đường
Ghi công đều là Thái Công
Kể đức đều là Khổng Ni
Càng nói nhiều lại càng đắt
Một nghìn chữ, thuê hàng vạn đồng rồi
Người viết văn là ai đó?
Tưởng chừng lúc hạ bút
Chỉ cốt sao đẹp lòng kẻ ngu
Không nghĩ đến người hiền đức chê cười
Chẳng những người hiền đức chê cười
Mà còn đánh lừa đời sau nữa
Những chữ phủ rêu xanh trên tấm đá cổ
Ngờ đâu lại là những lời đáng thẹn!
Ta nghe nói ở huyện Vọng Giang
Có ông huyện Cúc biết thương cả từ người con côi vợ góa
Khi làm quan có chính sự nhân từ
Mà tiếng tăm không đến nơi Kinh đô
Đến khi mất, muốn đem về quê chôn
Nhân dân đón ở ngã ba đường
Níu xe tang không để đưa về
Giữ lại chôn tại bên sông nọ
Đến nay nhắc đến tên ông
Trai gái đều rơi lệ
Chẳng ai dựng bia đá cả
Chỉ có người hàng huyện là biết

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (6 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Hoàng Tạo

Đức nghiệp ngày mỗi kém,
Văn chương cũng dần suy.
Chỉ thấy phiến đã núi,
Bên đường dựng thành bia.
Kể tài đều Thái Công,
Kể đức thảy Khổng Ni.
Lại cốt nói cho lắm,
Nghìn chữ, vạn đồng thuê!
Viết văn ai đó tá?
Tưởng lúc cầm bút đề,
Cốt sao kẻ ngốc thích,
Không dè người biết chê!
Há những người biết chê,
Còn truyền một mối nghi:
Ai ngờ văn bia cổ,
Lời lẽ chẳng ra gì!
Nghe ông Cúc, huyện Vọng,
Thương quả phụ, cô nhi.
Làm quan có nhân chính,
Tiếng chẳng đến vua nghe.
Chết đưa về quê táng,
Trăm họ đón đường đi.
Cùng níu xe giữ lại,
Chôn ở mé sông kìa!
Đến nay nhắc tên họ,
Trai gái lệ đầm đìa.
Chẳng ai lập bia cả.
Người huyện nhớ như ghi!

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Ngô Văn Phú

Công đức đã xem chừng xút kém,
Văn chương thì suy giảm lắm thay.
Mà sao đem đá núi này,
Dựng bia chất ngất ở ngay bên đường.
Công thì sánh Thái Công, kể lể,
Đức thì ngang Khổng Tử, tôn lên.
Càng dài, càng trả nhiều tiền,
Giá bạc muôn, chỉ một nghìn chữ ranh.
Kẻ nào đã làm văn này nhỉ?
Tưởng đến khi bút hạ vân vi.
Cốt vừa lòng kẻ ngu si,
Nghĩ gì đến chuyện khen chê ở đời.
Người hiền đức ngậm ngùi trách móc,
Còn bịp lừa cả lớp người sau.
Chữ trên đá cũ phủ rêu,
Chuốc mua hổ thẹn những câu văn này.
Quan huyện Vọng, chuyện hay còn đó,
Thương đến từ vợ goá, con côi.
Làm quan, nhân nghĩa tột vời,
Tiếng tăm, đâu có đến nơi đế thành.
Khi mất, định về làng chôn cất,
Ngã ba đường, dân biết đến ngăn.
Níu ghì bằng được xe tang,
Giữ chôn ở cạnh sông làng, bờ bên.
Mỗi khi nhắc đến tên huyện Khúc,
Gái trai đều nước mắt chứa chan.
Dẫu không bia đá bên đường,
Mà dân trong huyện đội ơn mấy đời.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Trong khi đạo đức đã suy tàn,
Là lúc văn chương cũng nát tan.
Lại thấy trong non kia tấm đá,
Được làm bia dựng ở bên đàng.
Ghi công dày tựa Thái Công trước,
Thêm đức cao như Khổng Tử an.
Thiển nghĩ chữ nhiều là quý báu,
Ngàn câu khắc tính vạn tiền vàng.
Người nào đã lập khổ văn đây,
Hạ bút cứ nhầm tưởng đấy thay.
Cần đẹp lòng người ngu cậy cục,
Nghĩ đâu kẻ trí lại chê cười.
Chẳng riêng kẻ trí cười chê vậy,
Sau để cháu con thắc mắc hoài.
Chữ khắc trên bia rêu phủ biếc,
Nào hay hỗ thẹn đến sau này.
Ta nghe huyện Vọng Giang đây có,
Quan Khúc lệnh chăm kẻ goá côi.
Chính trực nhân từ khi tại chức,
Kinh kỳ tiếng xấu chẳng tăm hơi.
Người qua đời muốn chôn quê cũ,
Dân chúng chặn đường cản trở lui.
Họ kéo càng xe cùng giữ lại,
Trọng tình chôn cất mạn sông đây.
Tới nay nghe nhắc tên ông ấy,
Ai cũng lệ tràn, dẫu gái trai.
Không kẻ lập bia ghi phúc đức,
Dân tình mến khắc cõi lòng thôi.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn phước Hậu

Đạo đức đã biến suy
Văn chương lại tàn rụi.
Hễ thấy đá tren núi
Làm bia dựng đường đi
Kể công như ông Thái
Đức cao tựa Trọng Ni.
Nghĩ chữ nhiều là quý
Ngàn câu vạn bạc chi.
Người nào viết văn bài
Hạ bút chỉ nghĩ ngay
Làm đẹp lòng người dốt
Để người trí cười hoài.
Không những người trí cười
Còn mối nghi để đời.
Rêu xanh phủ đá cổ
Đâu biết hổ quá lời.
Nghe quan Khúc Vọng Giang,
Lo goá phụ côi cút.
Quan nhân từ chính trực
Tên tuổi chẳng truyền loan.
Chết muốn về quê táng
Dân chúng cản đường đi
Giữ xe, níu kéo cáng.
Để chôn cạnh sông này.
Nay hễ nhắc tên ông
Gái trai rơi nước mắt
Không lập bia công khắc
Chỉ thị dân ghi lòng.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Vào lúc đã suy đồi đạo đức
Lại văn chương cũng nát tan lìa
Trong non tấm đá đằng kia
Được đem ra dựng làm bia bên đường
Ghi khắc công lớn dường họ Thái
Đạo đức cao tựa phái Trọng Ni
Chữ nhiều là quý nên ghi
Cả hàng ngàn chữ, tiếc gì tiền nong
Người nào đó trong khi hạ bút
Viết bài văn đã ức tưởng rằng:
Chỉ làm đẹp ý khách hàng
Nghĩ đâu người trí nay đang chê cười
Không những làm chê cười người trí
Còn truyền nghi kỵ tới đời sau
Chữ ghi trên đá xanh màu
Đâu dè là những lời đau hổ lòng
Ta nghe nói Vọng Giang quan huyện
Họ Khúc làm đầu huyện thương dân
Nhân từ chính trực chuyên cần
Tham quan không thấy truyền loan kinh kỳ
Khi mất muốn về quê an táng
Nhưng chúng dân đứng án trên đường
Níu càng xe buộc phải ngừng
Rồi cùng chôn cất bên sông chỗ này
Cho tới nay tên ngài hễ nhắc
Là gái trai thương tiếc khóc ròng
Không ai bia lập tuyên công
Chỉ dân ghi khắc trong lòng mà thôi.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Công đức ngày kém cỏi
Văn chương càng suy đồi
Bên đường phiến đá núi
Dựng bia lưu công ghi
Kể đức ngang Khổng Tử
Kể tài sánh Thái Công
Nói nhiều giá thêm đắt
Nghìn chữ thuê vạn đồng
Người viết văn là ai
Tưởng đến khi cầm bút
Cốt được lòng kẻ ngu
Người hiền sao khỏi bực
Người biết còn chê cười
Lưu truyền mối nghi lớn
Đá cổ phủ rêu xanh
Sao còn ghi bia dỏm
Nghe huyện Vọng, ông Cúc
Thương vợ goá con côi
Làm quan rất nhân chính
Tiếng tăm trong vùng thôi
Chết đưa về quê chôn
Dân ra đường nghênh đủ
Cùng giữ lại xe tang
Mồ bên sông, yên ngủ
Nay nhắc đến tên ông
Gái trai bưng mặt khóc
Nào ai dựng bia đâu
Cả huyện đều nhớ hết

Chưa có đánh giá nào
Trả lời