15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Cổ phong (cổ thể)
Thời kỳ: Trung Đường
2 bài trả lời: 2 bản dịch
1 người thích

Đăng bởi Vanachi vào 03/10/2008 23:44, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 01/11/2022 22:42




















 

Tần cát liễu

Tần cát liễu, xuất Nam Trung,
Thái mao thanh hắc hoa cảnh hồng.
Nhĩ thông tâm tuệ thiệt đoan xảo,
Điểu ngữ nhân ngôn vô bất thông.
Tạc nhật trường trảo diên,
Kim nhật đại chuỷ ô,
Diên sao nhũ yến nhất khoà phúc,
Ô trác mẫu kê song nhãn khô.
Kê hiệu đoạ địa yến kinh khứ,
Nhiên hậu thập noãn quặc kỳ sồ.
Khởi vô điêu dữ ngạc,
Tố trung thực bão bất khẳng bác,
Diệc hữu loan hạc quần,
Nhàn lập cao dương như bất văn.
Tần cát liễu,
Nhân ngôn nhĩ thị năng ngôn điểu,
Khởi bất kiến kê yến chi oan khổ?
Ngô văn phượng hoàng bách điểu chúa,
Nhĩ cánh bất vi phượng hoàng chi tiền trí nhất ngôn,
An dụng táo táo nhàn ngôn ngữ.

 

Dịch nghĩa

Chim yểng, ra từ đất Nam Trung,
Lông rực rỡ xanh đen, cổ hoa đỏ.
Tai thính lòng sáng lưỡi khéo dẻo,
Tiếng người tiếng chim, không tiếng nào không biết.
Hôm qua là diều vuốt dài,
Bữa nay là quạ bỏ lớn.
Diều lấy sữa yến làm nghiêng tổ hang,
Quạ mổ gà mẹ, khiến hai mắt khô.
Gà kêu rơi xuống đất, chim yến sợ bay đi.
Sau đó thu trứng bắt chim non,
Há không có chim diều cùng chim ó?
Hay là trong diều ăn no không đánh lộn được,
Cũng có đàn chim loan, chim hạc,
Đậu yên, bay cao làm như không nghe thấy.
Chim yểng,
Người ta nói đúng ngươi biết tiếng chim.
Sao chẳng thấy gà, chim yến bị oan khổ.
Ta nghe chim phượng hoàng là chúa các loại chim,
Sao ngươi không được thấy một lời của chim phượng,
Sao mà nhiều thứ tiếng chim kêu chẳng giúp ích gì.


Tần cát liễu là con chim yểng.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Ngô Văn Phú

Tần cát liễu, từ Nam Trung,
Lông ánh xanh đen, hoa cổ hồng.
Tai thính, lông sáng, lưỡi uốn khéo,
Tiếng chim, tiếng người, mi đều thông.
Bữa qua là diều dữ,
Bữa nay là quạ hung.
Diều lấy sữa yến phá hang tổ,
Quạ mổ gà mẹ, mắt khô cong.
Gà kêu lăn xuống, yến bay mất,
Mày thu lấy trứng, bắt chim non.
Chim diều, chim ó há chẳng có,
Diều ăn no căng chẳng đánh hộ,
Hay là loan, hạc ưa đậu yên,
Bay tít tầng cao nên chẳng rõ.
Tần cát liễu,
Người bảo rằng mi biết tiếng chim,
Sao không thấy gà, yến chịu oan.
Ta nghe phượng hoàng, chúa bách điểu,
Mà không nghe nổi một điều hơn,
Chỉ thấy những tiếng kêu hão rỗng...


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Tần cát liễu từ Nam Trung
Lông rực xanh đen cổ hoa hồng
Tai thính lòng sáng lưỡi khéo dẻo
Tiếng người tiếng chim đều tinh thông
Hôm qua diều vuốt dài
Quạ mỏ lớn bữa nay
Diều đoạt sữa yến làm nghiêng tổ
Quạ mổ gà mẹ khiến mắt đỏ
Gà con rơi xuống yến bay luôn
Sau đó thu trứng bắt chim non
Há không điêu cùng ó?
Trong dạ no không đánh lộn đó
Cũng có đàn loan hạc
Đậu yên bay cao không nghe được
Tần cát liễu,
Người ta nói ngươi hiểu tiếng chim
Há chẳng thấy gà yến bị khổ oan?
Ta nghe phượng hoàng là chúa các loài chim
Sao ngươi không được thấy một lời của chim phượng hoàng
Nhiều tiếng chim chẳng ích gì chăng?

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời