Thơ » Trung Quốc » Trung Đường » Bạch Cư Dị
Đăng bởi Vanachi vào 19/04/2007 20:10
新豐老翁八十八,
頭鬢眉須皆似雪;
玄孫扶向店前行,
左臂憑肩右臂折。
問翁折臂來幾年?
兼問致折何因緣?
翁雲貫屬新豐縣,
生逢聖代無征戰;
慣聽梨園歌管聲,
不識旗槍與弓箭。
無何天寶大徵兵,
戶有三丁點一丁;
點得驅將何處去?
五月萬里雲南行。
聞道雲南有瀘水,
椒花落時瘴煙起;
大軍徒涉水如湯,
未過十人二三死。
村南村北哭聲哀,
兒別爺娘夫別妻;
皆雲前後征蠻者,
千萬人行無一回。
是時翁年二十四,
兵部牒中有名字;
夜深不敢使人知,
偷將大石槌折臂;
張弓簸旗俱不堪,
從茲始免征雲南。
骨碎筋傷非不苦,
且圖揀退歸鄉土。
此臂折來六十年,
一肢雖廢一身全;
至今風雨陰寒夜,
直到天明痛不眠。
痛不眠,終不悔,
且喜老身今獨在;
不然當時瀘水頭,
身死魂飛骨不收;
應作雲南望鄉鬼,
萬人冢上哭呦呦。
老人言,君聽取;
君不聞開元宰相宋開府,
不賞邊功防黷武?
又不聞天寶宰相楊國忠,
欲求恩倖立邊功?
邊功未立生人怨,
請問新豐折臂翁。
Tân Phong lão ông bát thập bát,
Đầu mấn my tu giai tự tuyết;
Huyền tôn phù hướng điếm tiền hành,
Tả tý bằng kiên hữu tý chiết.
Vấn ông: Chiết tý lai kỷ niên?
Kiêm vấn: Trí chiết hà nhân duyên?
Ông vân: Quán thuộc Tân Phong huyện,
Sinh phùng thánh đại vô chinh chiến;
Quán thính lê viên ca quản thanh,
Bất thức kì thương dữ cung tiễn.
Vô hà thiên bảo đại trưng binh,
Hộ hữu tam đinh điểm nhất đinh;
Điểm đắc khu tướng hà xứ khứ?
Ngũ nguyệt vạn lý Vân Nam hành.
Văn đạo Vân Nam hữu Lô Thuỷ,
Tiêu hoa lạc thời chướng yên khởi;
Đại quân đồ thiệp thuỷ như thang,
Vị quá thập nhân nhị tam tử.
Thôn nam thôn bắc khốc thanh ai,
Nhi biệt gia nương phu biệt thê;
Giai vân tiền hậu chinh Man giả,
Thiên vạn nhân hành vô nhất hồi.
Thị thời ông niên nhị thập tứ,
Binh bộ điệp trung hữu danh tự;
Dạ thâm bất cảm sử nhân tri,
Thâu tướng đại thạch chuỳ chiết tý;
Trương cung bá kỳ câu bất kham,
Tòng tư thỉ miễn chinh Vân Nam.
Cốt toái cân thương phi bất khổ,
Thả đồ luyến thoái quy hương thổ.
Thử tý chiết lai lục thập niên,
Nhất chi tuy phế nhất thân toàn;
Chí kim phong vũ âm hàn dạ,
Trực đáo thiên minh thống bất miên.
Thống bất miên, chung bất hối,
Thả hỉ lão thân kim độc tại;
Bất nhiên đang thì lô thuỷ đầu,
Thân tử hồn phi cốt bất thâu;
Ứng tác Vân Nam vọng hương quỷ,
Vạn nhân trủng thượng khốc u u.
Lão nhân ngôn, quân thính thủ;
Quân bất văn Khai Nguyên tể tướng Tống khai phủ,
Bất thưởng biên công phòng độc vũ?
Hựu bất văn Thiên Bảo tể tướng Dương Quốc Trung,
Dục cầu ân hãnh lập biên công?
Biên công vị lập sinh nhân oán,
Thỉnh vấn Tân Phong chiết tý ông.
Cụ già đất Tân Phong tám mươi tám tuổi,
Chân mày, râu, tóc đều trắng như tuyết,
Đứa chút dắt dìu ông đến trước điếm
Tay trái ông thì bíu vai đứa chút, tay phải thì cụt mất.
Hỏi cụ: mất tay đã bao năm?
Lại hỏi: Vì cớ gì mà mất tay?
Cụ nói: Quê lão tại huyện Tân Phong,
Sống vào những năm tháng yên bình không có chiến tranh,
Thường quen nghe tiếng đàn hát ở vườn lê,
Không biết cờ xí, cung tên là gì.
Không bao lâu có cuộc trưng binh lớn thời Thiên Bảo,
Hộ có ba trai chấm lấy một,
Chấm được rồi thì lùa đi biệt xứ,
Tháng năm đi miền Vân Nam xa vạn dặm,
Nghe nói ở Vân Nam có sông Lô,
Cứ đến mùa hoa tiêu rụng là độc khí bốc lên,
Toàn quân phải lội qua sông, nước nóng như sôi,
Chưa qua sông hết mà mười người đã chết mất hai ba,
Tiếng khóc nghe thảm thiết từ thôn bắc chí nam,
Con giã biệt cha, vợ giã biệt chồng,
Người rằng trước sau gì những người lính chinh Man,
Nghìn vạn người ra đi sẻ không một ai trở về,
Ngày đó lão hai mươi bốn tuổi,
Trong tờ công văn binh bộ có tên,
Đêm khuya không dám cho ai biết,
Lén lấy hòn đá to đập gãy cánh tay.
Việc giương cung, phất cờ không kham nổi nữa,
Từ đó không còn bị đưa đi đánh Vân Nam.
Gãy xương đứt gân không phải là không đau,
Chỉ mong được loại về chốn quê hương.
Mất tay đã sáu mươi năm rồi,
Tuy một tay bị đoạn nhưng thân vẫn được vẹn nguyên,
Đến những đêm mưa dầm gió lạnh,
Đau nhức suốt đêm không sao ngủ được.
Đau không ngủ được nhưng rốt cuộc vẫn không hối hận,
Mừng cho cái thân già vẫn còn sống sót đến hôm nay.
Nếu không phải như thế thì trên đầu nguồn sông Lô ngày ấy,
Thân chết, hồn chơi vơi, nấm xương không ai góp nhặt,
Đã thành con ma nhớ quê nhà ở Vân Nam.
Khóc rền rĩ trên bãi những nấm mồ chôn vạn thân xác.
Lời kể của lão, ngươ hãy lắng nghe.
Ngươi chưa từng nghe qua tể tướng Tống khai phủ đời Khai Nguyên,
Không thưởng công chuyện mở rộng biên cương để phòng kẻ lạm dụng vũ lực đó sao?
Lại chẳng biết tể tướng Dương Quốc Trung đời Thiên Bảo,
Vì muốn được ân sủng thưởng ban của vua mà đã lập công bằng cách mở rộng biên cương đó sao?
Biên công chưa lập thì lòng dân đã oán hận rồi.
Xin hãy hỏi ông lão đất Tân Phong sẻ rõ thôi!
Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 19/04/2007 20:10
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử ngày 27/05/2019 11:54
Ông già Tân Phong tám tám tuổi
Đầu tóc mày râu như tuyết gội
Đứa chít dìu đi trước quán hàng
Tay cụt, tay nương vai chít nội
Hỏi ông: “Tay cụt mấy năm nay?”
Lại hỏi: “Vì sao cụ cụt tay?”
Ông đáp: “Tân Phong vốn quê huyện
Sinh nhằm triều thánh không chinh chiến
Quen nghe đàn hát chốn Vườn Lê
Cung kiếm đao thương chưa biết đến
Bỗng thời Thiên Bảo đại trưng binh
Nhà cứ ba đinh bắt một đinh
Bắt được xua đi đâu đó mất
Vân Nam muôn dặm phải tòng chinh...
Vân Nam nghe có dòng Lô ác
Mùa rụng hoa tiêu hơi độc tác
Quân lội qua sông nước bỏng sôi
Mười mạng, chưa qua vài mạng thác
Bắc xóm nam thôn khóc xót xa
Chồng lìa cách vợ, con lìa cha
Rằng vạn nghìn người đi đánh Mán
Trước sau không một kẻ về nhà
Thuở ấy lão vừa hăm bốn tuổi
Bộ Binh đưa giấy biên tên gọi
Đêm khuya chẳng dám để ai hay
Lén đập gãy tay bằng đá cuội
Giương nỏ cung cờ chẳng thể làm
Từ rày thôi khỏi tới Vân Nam
Gân dập xương tan đau lắm chớ
Nhưng mong được thải về quê ở
Gãy tay giờ sáu chục năm tròn
Một tay tuy mất, một thân còn
Nay cứ đêm nào mưa gió lạnh
Suốt sáng nằm đau chẳng ngủ ngon
Chẳng ngủ ngon, không tiếc hối
Mừng chút thân già còn sống nổi
Nếu không, thuở ấy dọc sông Lô
Bay hồn, bỏ rạc nấm xương khô
Làm quỷ Vân Nam mơ xóm cũ
Trên mồ muôn xác khóc hu hu!”
Hãy nhớ ghi lời ông cụ
Anh chẳng nghe:
Tướng triều Khai Nguyên Tống Khai Phủ
Không thưởng biên công, ngừa độc vũ
Lại chẳng nghe:
Tướng triều Thiên Bảo Dương Quốc Trung
Muốn cầu ân sủng, lập biên công
Công chửa thấy chi, dân đã oán
Hỏi ông tay gãy huyện Tân Phong...
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi Vanachi ngày 19/04/2007 20:11
Tân Phong lão tám mươi tám tuổi
Tóc mày râu như gội tuyết trời
Chút dìu trước điếm đến nơi
Cánh tay phải mất, trái rồi bíu vai.
Ta hỏi cụ: Bao năm tay mất?
Duyên cớ gì ách tật long đong?
Cụ rằng: Quê huyện Tân Phong
Sống thời bình lặng, chưa từng chiến chinh.
Thường quen tiếng vườn Lê đàn hát
Biết cung tên cờ quạt chi đâu!
Trưng binh Thiên Bảo không lâu
Ba trai một hộ, tóm đầu một trai.
Quân đã điểm tống vùng chướng khí
Tháng năm thân vạn lí Vân Nam
Đất này nghe có Lô giang,
Mùa hoa tiêu rụng, độc càng bốc lên.
Quân phải lội vượt dòng nước nóng
Mười lính qua bỏ mạng hai ba
Thôn nam xóm bắc khóc òa,
Cha con khổ biệt, vợ xa cách chồng.
Rằng những kẻ chinh Man sau trước
Vạn người đi chẳng một ai về
Lão hăm bốn tuổi đúng thì,
Công văn binh bộ dể gì thiếu tên?
Đêm khuya khoắc lén không ai biết
Lấy đá to hủy diệt tay này
Phất cờ, giương tiễn khó thay!
Từ đây khiến khỏi bị đày Vân Nam.
Xương gân đoạn ai không đau đớn?
Mong loại về lại chốn quê hương
Mất tay sáu chục năm trường
Một cành tuy gẫy, thân thường vẹn nguyên.
Những đêm lạnh mưa dầm gió rú
Nhức thâu canh giấc ngủ không tròn
Đau mà lòng chẳng tiếc than,
Mừng cho cái mạng già còn tới nay.
Nếu không thế thì dòng Lô Thủy
Hồn chơi vơi, xương tủy khó tầm
Hóa làm ma ngóng Vân Nam,
Khóc rên rĩ giữa mồ chôn vạn người.
Lời lão kể hãy nên ghi nhớ
Anh có nghe Tống phủ Khai Nguyên?
Chẳng ban thưởng chuyện khai biên,
Đề phòng kẻ xấu lạm quyền dụng binh.
Rồi Thiên Bảo Quốc Trung Tể Tướng
Muốn được vua ban thưởng biên công
Công đâu dân đã hận lòng!
Hỏi thăm ông lão Tân Phong sẻ rành!
Gửi bởi Vanachi ngày 16/09/2007 15:41
Ông lão Tân Phong tám tám tuổi,
Đầu tóc râu mày bạc trắng toát.
Đứa chít dìu qua trước quán làng,
Tay trái vịn vai, tay phải cụt.
Hỏi ông: tay cụt bao năm nay?
Và hoi: Vì sao bị cụt tay?
- Rằng: “Huyện Tân Phong, quê lão ở,
Sinh gặp thánh triều không giặc giã.
Quen nghe tiếng hát ở trong cung,
Chẳng biết cầm thương và bắn nỏ.
Nào hay Thiên Bảo bỗng trưng binh,
Nhà ba đinh, bắt một tòng chinh.
Bắt rồi đem đầy đi đâu đó?
Tháng năm, Vân Nam tếch dặm nghìn.
Nghe nói Vân Nam có Lô Thuỷ,
Mùa hoa tiêu rụng đầy chướng khí,
Quân kéo qua sông, nước bỏng sôi,
Chưa qua, mười mạng, vài tiêu huỷ!
Xóm bắc thôn nam khóc não nề,
Lìa cha lìa mẹ, biệt thê nhi.
Rằng bao lần dẹp quân man rợ,
Nghìn vạn người đi chẳng một về.
Bấy giờ lão lứa hăm tư tuổi,
Tên sổ bộ Binh không lọt khỏi.
Lẻn lúc đêm khuya giấu mọi người,
Lấy hòn đá đập nát tay phải.
Giương cung, phất cờ đều chẳng kham,
Từ đấy được miễn trẩy Vân Nam.
Xương nát gân dần đâu chẳng khổ,
Chỉ mưu được thải về quê cũ.
Tay này bị cụt sáu mươi năm,
Mất một tay mà vẹn một thân.
Nay cứ gió mưa đêm giá rét.
Đầu hôm đến sáng nhức khôn nằm.
Nhứ khôn nằm!
Trọn đời đâu hối tiếc,
Mừng cái thân già riêng sống sót.
Nếu không, thuở ấy đầu sông Lô,
Chết bỏ Vân Nam nắm cốt khô.
Vất vưởng hồn ma nơi đất khách,
“Mồ muôn người đó”, khóc hu hu.
Hãy ghi lấy lời ông cụ:
Há chẳng nghe,
Triều Khai Nguyên tể tướng Tống Khai Phủ,
Biên công chẳng thưởng, ngừa hăng máu?
Lại chẳng nghe,
Triều Thiên Bảo tể tướng Dương Quốc Trung,
Muốn cầu tước vị lập biên công?
Công chẳng thấy đâu, dân oán dậy,
Hỏi ông ty cụt huyện Tân Phong.
Gửi bởi Anh Nguyêt ngày 29/12/2014 08:42
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi ngày 29/12/2014 13:45
Tám mươi tám, lão Tân Phong,
Lông mày, râu, tóc, bạc không còn gì.
Quán hàng, chút chít dẫn đi,
Cánh tay phải gẫy, trái thì vịn vai.
Hỏi: ‘‘Tay gẫy mấy năm nay?’’,
Lại thêm: ‘‘Sao gẫy tay này thế ông?’’.
Đáp rằng: ‘‘Quê huyện Tân Phong’’,
Sinh thời thịnh trị, sống trong yên lành.
Lê Viên đàn sáo nghe rành,
Cung, tên, cờ trận, gươm, đành không hay.
Đời Thiên Bảo, bắt lính gay,
Nhà ba trai tráng, bắt ngay một người.
Đưa đi, chẳng rõ được nơi,
Tháng Năm, vạn dặm, đến trời Vân Nam.
Vân Nam, nghe có Lô Giang,
Mùa thu tiêu rụng, độc càng tỏa ra.
Nước sông nóng bỏng, lội qua,
Mười người chưa đến, chết ba, hai, rồi.
Bắc, nam xóm khóc ỷ ôi,
Chồng xa lìa vợ, con thời lìa cha.
Người rằng: ‘‘Đi đánh rợ xa,
Người đi nghìn vạn, về nhà thì không’’.
Lão hai mươi bốn, trẻ trung,
Bộ binh, tên đã ghi trong giấy rồi.
Đêm khuya, lén lúc vắng người,
Lấy hòn đá lớn, đập nơi tay này.
Giương cung, cờ phất: bó tay,
Vân Nam đi đánh, miễn ngay ở nhà.
Xương, gân, dập nát khổ a!
Chỉ vì mong được loại ra để về.
Sáu mươi năm, thấy mau ghê,
Một tay tuy hỏng, thân kia vẹn toàn.
Nay, đêm mưa gió lạnh tràn,
Đớn đau, thức đến đêm tàn ngủ đâu.
Đau không ngủ, chẳng hận sầu,
Mừng thân già vẫn từ lâu ở nhà.
Nếu không, bên bến Lô xa,
Thân vùi, hồn lạc, ai mà thu xương.
Ma Vân Nam nhớ quê hương,
Vạn người, trên mộ khóc thương ào ào.
Lời già, anh khắc ghi vào...
Anh nghe chăng chuyện:
Tống khai phủ: tướng Khai Nguyên,
Thưởng công đánh chiếm ngoài biên bao giờ?
Lại nghe chăng:
Triều Thiên Bảo, tướng Quốc Trung,
Muốn cầu ân sủng, lập công đánh ngoài.
Công chưa lập, oán dài dài!
Tân Phong, hỏi lão gẫy tay biết liền...
Gửi bởi Lâm Xuân Hương ngày 15/04/2016 20:36
Già Tân Phong tuổi nay tám tám
Đầu tóc mày râu trắng tuyết pha
Chắt dìu trước quán đi qua
Níu vai tay trái, phải đà gãy đôi
Hỏi ông: tay què hồi nào vậy?
Lại hỏi thêm: sao xảy tay què?
Tân Phong huyện chính là quê
Sinh vào triều đại chưa hề chiến chinh
Lê Viên nghe tiếng sênh hoà sáo
Không biết cờ xí giáo cung tên
Không ngờ Thiên bảo động viên
Nhà ba người một phải liền tòng quân
Thành lính rồi dẫn đi đâu vậy?
Năm tháng sau được đẩy Vân Nam
Sông Lô nghe ở Vân Nam
Mùa hoa tiêu rụng khí vàng bốc lên
Toàn quân phải lội trên nước nóng
Mười người qua hết sống vài ba
Khắp làng tiếng khóc vang ra
Trai xa cha mẹ, chồng lìa vợ con
Họ đều nói đánh man dẹp rợ
Vạn người đi chẳng có ai về
Lão vừa hăm bốn tuổi kề
Tờ trưng binh thấy có đề tên tôi
Ban đêm không dám cho ai biết
Tảng đá dùng đập nát cánh tay
Giương cung không thể từ đây
Vân Nam được miễn chờ ngày về quê
Xương gân gãy không nề đau đớn
Chỉ cầu cho được sớm về quê
Cánh tay sáu chục năm què
Toàn thân sống sót là nhờ một tay
Cho tới nay những đêm lạnh lẽo
Đau đớn không ngủ kéo sáng luôn
Tuy đau đớn nhưng không buồn
Mừng cho thân xác già tồn tới nay
Nếu không ở sông Lô ngày đó
Thân chết rồi xương có ai gom?
Hồn ma vời vọng quê hương
Khóc than nơi vạn người chôn chung mồ
Lão nói các người nghe cho rõ:
Người chẳng từng nghe tể Khai nguyên
Không thưởng công kẻ lạm quyền
Không như tể tướng họ Dương bây giờ
Mưu lập công cõi bờ mở rộng
Kết quả thua, oán hận lòng người
Không tin nhân chứng hỏi tôi
Tay què ông lão già đời Tân Phong.