424.64
Nước: Việt Nam (Hiện đại)
86 bài thơ
2 bình luận
13 người thích

Thơ đọc nhiều nhất

Thơ thích nhất

Thơ mới nhất

Tác giả cùng thời kỳ

- Xuân Diệu (357 bài)
- Vũ Hoàng Chương (417 bài)
- Hữu Loan (10 bài)
- Yến Lan (386 bài)
- Phạm Huy Thông (34 bài)
Tạo ngày 23/07/2005 02:45 bởi Vanachi, đã sửa 2 lần, lần cuối ngày 11/02/2006 20:48 bởi Vanachi
Bích Khê (24/3/1916 - 17/1/1946) tên thật là Lê Quang Lương, sinh tại xã Phước Lộc, quận Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, nay thuộc tỉnh Nghĩa Bình, nhập tịch và cư trú tại quận lỵ Thu Xà cùng tỉnh. Ông là con thứ chín của một gia đình nho học, người ông từng tuẫn tiết vì không chịu theo Nguyễn Thân đàn áp cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng; người cha tham gia phong trào Đông du của Phan Bội Châụ Ông học tiểu học ở quê nhà và ở Đồng Hới, trung học học ở Huế, sau đó ra Hà Nội học ban trú tài nhưng nửa chừng bỏ dở. Năm 1934 cùng người chị ruột Ngọc Sương vào Phan Thiết mở trường dạy học tư và học thêm. Năm 1936, người chị bị sở mật thám Pháp bắt, trường tan vỡ, ông trở lại quê nhà đóng cửa làm thơ.

Năm 1937 Bích Khê bị bệnh phổi, sau khi điều trị trở về, lên sống trên núi Thiên Ấn thuộc Quảng Ngãi,…

 

Tinh huyết (1939)

Tuyển tập chung

 

 

Ảnh đại diện

Bích Khê Lê Mộng Thu và những khúc ca huyền diệu

Bích Khê Lê Mộng Thu tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24 tháng 3 năm 1916 tại xã Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Từ nhỏ Bích Khê Lê Mộng Thu đã tỏ rõ sự thông minh, có trí nhớ đặc biệt. Năm 1929 vào học ở Trường Pellerin Huế, đến 1932 ông đã hoàn thành chương trình trung học. Tiếp đó, ông ra Hà Nội học ban Tú tài triết học. Tại đây, ông kết bạn với một người. Người này, đến năm 1934 lại cùng Bích Khê vào Phan Thiết phụ giúp người chị của Bích Khê Lê Mộng Thu mở một trường tư thục mang tên Hồng Đức. Đến năm 1936, người chị của Bích Khê Lê Mộng Thu bị mật thám bắt vì tình nghi hoạt động chính trị. Thừa cơ, người bạn của Bích Khê liền xoay sở để trường Hồng Đức thành trường của y. Tình đời quá chua chát, Bích Khê Lê Mộng Thu vào nương náu nơi cửa chùa, lấy câu kinh, tiếng mõ cùng thiên nhiên u tịch làm dịu nỗi đau nhân tình. Và, chính thời gian này Bích Khê Lê Mộng Thu đã làm thơ. Thế rồi, dòng máu thi sĩ trong huyết quản đã khiến ông lại trở về cuộc sống tục luỵ. Bốn tháng sau, khi người chị được tha ra, Bích Khê Lê Mộng Thu trở về nhà, chuyên chú vào đọc sách và sáng tác. Là người đã nghiên cứu triết học, được tiếp xúc nhiều với thành tựu văn hoá Tây phương, Bích Khê ngay từ buổi đầu sáng tác, đã rất dụng công nhằm đạt tới thành tựu mới mẻ. Như sau này, nhà thơ kiệt xuất Chế Lan Viên, bằng kinh nghiệm thơ ca sâu sắc và bằng sự thấu hiểu của tình bạn tâm giao đặc biệt, đã có nhận xét: Hàn Mặc Tử bị thơ làm;Bích Khê Lê Mộng Thu đã làm thơ, làm trên chữ trên câu, trên các yếu tố năng lực của tâm hồn mình, rồi thì các cái ấy nó làm anh trở lại... Chuyên chú vào làm thơ, và có lẽ cũng bị nó làm trở lại theo cách nói của Chế Lan Viên, chỉ một thời gian sau Bích Khê Lê Mộng Thu phát bệnh, phải đi nằm nhà thương chữa trị hơn một năm. Đến cuối năm 1937, ông được gia đình đồng ý cho vào ngụ ở một ngôi chùa để tập trung nghiên cứu Phật học và làm thơ. Nhưng chẳng bao lâu sau, ông lại bỏ chùa về nhà, vì cho rằng giới luật và chuông, mõ không lợi cho sáng tác văn chương. Để được trải tâm hồn xa rộng, ông sống bồng bềnh trên một chiếc thuyền nhẹ, ở quê ông gọi là sõng, trên vùng sông nước Trà Khúc, Phú Thọ, xóm Dừa, Cổ Luỹ,... Và ông có thơ, thơ rất độc đáo:

Hoàng hôn ồ bên cồn
Bên cồn ô cô thôn
Cô thôn ô trúc vàng
Trúc vàng điểm riêng thu...
Đến thời gian này, Thơ Mới đã hoàn toàn chiếm lĩnh thi đàn Việt Nam, và nó cũng dần dần lắng vào sự ổn định. Bích Khê Lê Mộng Thu xuất hiện với một sự cách tân thêm nữa cho thơ. Ông cách tân trong chữ: Gió đi chới với trong khung trắng - Lộ nửa vần thơ nửa điệu ca. Ông cách tân trong lối miêu tả: Đêm u buồn ngủ mơ trên mái tóc - Vài chút trăng say đọng ở làn môi. Ông cố cách tân trong tạo câu: Thoáng tiếng gáy của cu - Cườm. Hiu hiu vàng đượm… Ông đặc biệt thành công khi làm mới câu thơ bằng cách phà vào nó những cảm giác kỳ ảo. Bích Khê đã gửi tập bản thơ nhờ Hàn Mặc Tử đọc, góp ý. Chỉ ít lâu sau Hàn Mặc Tử gửi trả lại tập bản thảo với lời phê khá nặng. Điều đó càng khiến Bích Khê càng tập trung cao độ tinh lực vào sáng tác thơ. Chỉ không đầy nửa năm, ông đã sửa chữa được nhiều hạn chế của mình, đã viết nên những bài thơ đích thực của đời mình. Đó là tập thơ Tinh huyết. Và tập thơ Tinh huyết, được Trọng Miên xuất bản năm 1939, Hàn Mặc Tử viết lời tựa với sự đánh giá rất trọng thị, rất lạ lùng: “...Ta có thể sánh thơ của Bích Khê Lê Mộng Thu như đoá hoa thần dị...”. Với sự kiện tập thơ Tinh huyết được xuất bản có lời tựa do Hàn Mặc Tử, thi đàn Việt Nam thêm một ngôi sao sáng. Hoài Thanh và Hoài Chân đã viết trong Thi nhân Việt Nam: “Tôi đã gặp trong Tinh huyết những câu thơ hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam:
Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông...
Tinh huyết là tập thơ duy nhất được xuất bản khi tác giả còn sống, và cũng là tập thơ quan trọng bậc nhất trong sự nghiệp của ông. Tập thơ gồm 105 trang, có 4 phần: Phần 1 tựa đề Nhạc và lệ với lời đề tặng Hàn Mặc Tử; phần 2 tựa đề Đẹp và dâm với lời đề tặng Trọng Miên; phần 3 tựa đề Cuồng và ánh sáng với lời đề tặng hai anh Hoài và Hường; phần 4 tựa đề Châu. Đến thời điểm Tinh huyết được xuất bản, Bích Khê bắt đầu được bạn đọc và giới quan tâm coi là một thành viên của Trường thơ loạn mà Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên lập từ năm 1936. Hàn Mặc Tử có thơ điên, Chế Lan Viên có thơ kinh dị, còn Bích Khê có cả điên cả kinh dị và nhiều nhất là mộng mị trong thơ. Âm điệu, hình ảnh, nghĩa chữ, nghĩa câu của thơ ông nhiều khi rất mộng mị hư ảo.

Có thể nói, trong thơ Việt, không mấy người thành công trong việc tạo cảm giác cho câu thơ như Bích Khê. Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên là hai người hiểu Bích Khê và cũng có ảnh hưởng tới Bích Khê. Một người nữa, và cũng rất hiểu tài thơ của Bích Khê, là nhà văn Lê Tràng Kiều. Trước khi Tinh huyết được xuất bản, Lê Tràng Kiều đã giới thiệu nhiều về thơ Bích Khê Lê Mộng Thu. Ông là người sớm nhất trong việc giới thiệu tài thơ của Bích Khê Lê Mộng Thu với bạn đọc. Trên tuần báo Tiểu thuyết Thứ năm số 30 (11-4-1938) Lê Tràng Kiều viết: “...Mới đây, các bạn đã được say sưa nghe tiếng Tỳ bà thần ảo. Hãy im, nay tác giả Tỳ bà sẽ cho ta nghe hai khúc ca nữa. Khúc Hoàng hoa và khúc Nghê thường...”. Tỳ bà, Hoàng hoaNghê thường là 3 bài thơ hay bậc nhất của Bích Khê mà Lê Tràng Kiều đã giới thiệu trên tờ báo TTTN của ông và coi đó là những bài ca thần ảo.

Vẫn là những câu thơ theo vần bằng, nhà thơ tạo xúc cảm cho độc giả bằng thứ nhạc của riêng ông, và bằng cả màu sắc, cũng của riêng ông. Cùng với nhạc điệu và màu sắc thật huyền diệu, còn có cả hình khối nữa: Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa - Đông nam mây đùn nơi thành xa… Ở đây, thấy rõ, nhà thơ nhìn tạo vật bằng cách nhìn độc đáo, đầy sáng tạo. Ông huyền hoặc hoá một câu chuyện tình, người trai đi chinh chiến nơi viễn xứ, người gái mòn mỏi ngóng vọng: Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi - Làm trăng theo chàng qua muôn nơi… - Nay hoàng hôn rồi mai hôn hoàng - Trông gương buồn giơ cho dong nhan! Là một câu chuyện tình của Trung Hoa cổ, nhưng cơ sở cảm hứng sáng tạo của nhà thơ rất đời, nên thơ đã rung cảm người đọc một cách tự nhiên: Non yên tên bay ngang muôn đầu... - Thân khuê oan gì giam xuân sâu? Và, hai câu kết nhói vào lòng người đọc nỗi đau nhân tình:
Ai xây bờ oan trên xương người?
Ai xây mồ hoa chôn xuân tươi?
Với bài Nghê thường, ông đi đến chỗ thần tiên hoá con người. Có lẽ, lối thơ huyền diệu mỗi lúc mỗi dẫn ông đi xa cõi đời thực chăng?
Ô trời hôm nay sao mà xanh!
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành
Nhung mây tê ngời sao kim cương
Dạ lan tê ngời say men hương
Quả là một nơi xa hẳn cõi đời thực: Lầu ai ánh gì như lưu ly? - Nụ cười ai trắng như hoa lê? Cấu tứ của bài thơ là vậy, nhà thơ, trong một cuộc phiêu diêu, đã cùng nàng thơ nhịp nhàng lên cung trăng. Những câu thơ mô tả cảnh trên cung trăng, có các tiên nữ tình hây hây trong vũ điệu Nghê thường và Khúc phụng cầu hoàng sôi đê mê… và rồi bài thơ khép lại bằng hình tượng nhà thơ và nàng thơ Nhìn xuống trần gian cười như điên. Về ý thơ và tình thơ Nghê thường là một nỗi buồn lớn đến mức (nhờ mộng tưởng) thoát khỏi cõi đời, lên tận trời còn nhìn xuống, cười như điên. Về xu hướng thơ, Nghê thường chủ yếu là thơ huyền diệu, nhưng đến cuối bài lại có yếu tố thơ điên. Do vậy mà người ta mới coi Bích Khê có cả điên cả kinh dị trong thơ. Đúng ra, ông còn có một lượng lớn thơ theo xu hướng tượng trưng. Lối viết tượng trưng, nhà thơ đã trổ hết tài về kỹ xảo chữ, kỹ xảo câu, kỹ xảo tạo nhạc điệu, tạo hình ảnh… Do vậy, một số bài thơ của Bích Khê bị thiếu cái hơi thở tự nhiên của cảm xúc. Đấy là sự quá đà trong tìm tòi nghệ thuật, khiến những người có lối tư duy giản dị coi là sự kỳ khu quá mức. Biết làm sao được, tài năng thơ vốn sẵn mang trong mình sự độc đáo, cực đoan. Bích Khê đã cống hiến cho thơ Việt Nam một thứ thơ không ai có, đó là thơ huyền diệu, bằng cách dốc hết tinh huyết, tinh hoa của mình vào sáng tạo, những năm mới hơn hai mươi tuổi đời!

Cuối năm 1941, đầu năm 1942, bệnh phổi tái phát, Bích Khê phải đi chữa trị 8 tháng tại Bệnh viện Pasquier Huế, sau đó về nhà chạy chữa thuốc nam, song không có hiệu quả. Đây là những tháng ngày đau buồn nhất cuộc đời nhà thơ. Vào ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, đang nằm trên giường bệnh, Bích Khê đã xin người nhà khiêng giường ra ngõ để ông được chào lá cờ của Cách mạng. Đến tháng giêng năm 1946, cảm thấy không thể qua khỏi, Bích Khê nhờ người chị ghi lời di chúc với nội dung: 1. Khi ông chết, người nhà không nên khóc. 2. Chết xong liệm liền, chôn liền. 3. Liệm thật giản dị, một tấm vải trắng đắp thi hài và một cái hòm loại thường, đám ma không kèn trống. 4. Không nhận tiền của bà con đến phúng viếng. 5. Ngày giỗ chỉ đốt hương, trầm và cắm hoa, không được đặt đồ ăn lên bàn thờ. 6. Các tập thơ thì chị gái Ngọc Sương và anh rể Lạc Nhân mang quyền xuất bản.

Đêm 17 tháng 1 năm 1946, hơn 11 giờ, Bích Khê Lê Mộng Thu nằm thiếp trên giường, vẫn còn thần trí lắng nghe những hồi kinh vinh sinh. Thời khắc vô cùng nặng nề và đau thương đối với gia đình nhà thơ. Gần 12 giờ, ông còn nói: “Tôi chết đêm nay mà”. Và đúng 12 giờ thì ông qua đời, để lại cho cuộc sống những tác phẩm thơ đặc sắc lạ lùng, lạ lùng đến không thể phân tích, chỉ cảm nhận thấy cái đẹp của nó thôi. Thơ độc đáo đến vậy, là bởi Bích Khê Lê Mộng Thu là một thi sĩ không giống ai trên đời, như Hàn Mặc Tử viết, đó là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tại thì sự thực sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu...


2003-10-10T13:40:56

(Văn nghệ số 41)
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
24.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bích Khê (1916-1946)

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24/3/1916 tại quê ngoại, xã Phước Lộc, quận Sơn Tịnh, nhưng lớn lên tại quê nội thị xã Thu Xà, xã Nghiã Hoà. Hai nơi đều thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Mất ngày 17/1/ 1946, tại Thu Xà.
Là con út trong gia đình tám anh chị em (4 chị, 3 anh), cha là Lê Mai Khê một nhà nho mất sớm và mẹ là bà Phạm Thị Đoan. Thủa nhỏ Bích Khê học ở Thu Xà, rồi Đồng Hới và lên trung học vào trường dòng Pellerin Huế. Sau ra Hà Nội học tú tài, ban Triết. Năm 1934, Bích Khê bỏ học, cùng người bạn vào Phan Thiết mở trường tư, vừa dạy vừa sáng tác trong 2 năm (1934-1936). Mắc bệnh phổi từ 1935 (19 tuổi). Phải điều trị ở bệnh viện lao Pasquier, Huế, trong hơn một năm (1936-1937). 1938 trở lại Phan Thiết mở trường dạy học lần thứ nhì (1938-1939) và xuất bản tập thơ đầu tiên : Tinh huyết (1939) do Hàn Mặc Tử viết tựa.
Năm 1941 về Huế dạy học, được ít lâu, bệnh phổi tái phát, lại phải trở vào bệnh viện Pasquier điều trị lần thứ nhì, năm 1942. Mất năm 1946, ở tuổi ba mươi, đúng lúc cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Làm thơ từ 15 tuổi (1931), theo các thể cổ điển như: Đường luật, từ khúc, hát nói, đăng trên các báo Tiếng dân (Huế), Phụ nữ tân văn (Sàigòn), và Đông Tây (Hà nội). Khoảng 1936, Bích Khê chuyển sang Thơ mới.
Tập Tinh huyết (1939), là tác phẩm duy nhất được in khi Bích Khê còn sống.

Thơ ông không được nhắc đến trong một thời gian dài ở miền Bắc, phần vì người ta không hiểu thơ Bích Khê, nhưng lý do chính là chính trị: Bích Khê dịch cuốn Retour de L’U.R.S.S (Ở Nga về) của André Gide, viết năm 1936, kể lại nỗi thất vọng sau khi đi thăm "thiên đường cộng sản". Mặc dù chưa in, nhưng việc dịch này, kèm thêm sự kiện Bích Khê tỏ ý bất bình khi nghe tin Tạ Thu Thâu bị ám sát, đã khiến người ta liệt Bích Khê vào hàng ngũ phản động Trotskite, và tên tuổi ông bị chính thức loại ra khỏi danh sách những nhà thơ tiền chiến.
Năm 1966, tại Sàigòn, báo Văn (do Trần Phong Giao quản nhiệm) làm số tưởng niệm Bích Khê (số 64, ra ngày 15/ 8/ 1966), với những tư liệu do gia đình cung cấp và bạn thân viết. Nhờ những bài của bà Lê Ngọc Sương (chị ruột nhà thơ), của Tam Ích, của Quách Tấn... mà chúng ta biết rõ thêm những chi tiết về cuộc đời Bích Khê, và một số thơ của ông cũng đến được với độc giả.
Tập Tinh hoa xuất bản sau này, gồm hai phần: Một số làm sau Tinh huyết và một số đã có trong Tinh huyết, được sửa lại, hoặc cắt ngắn đi.
So sánh hai cuốn thì Tinh huyết vẫn là tác phẩm chính. Những sáng tạo mới đều nằm trong Tinh huyết. Tinh hoa trở lại gần với thơ truyền thống. Tinh huyết là thời kỳ sáng tạo sung mãn, có Hàn Mặc Tử khuyến khích. Bích Khê xuất hiện sau Hàn Mặc Tử vài năm, chịu ảnh hưởng thơ Hàn Mặc Tử. Tác phẩm của Bích Khê cũng chịu những chìm nổi, đau thương, như tác phẩm của Hà Mặc Tử.
Tuy nhiên, trong Tinh huyết, Bích Khê đã hình thành cấu trúc thi ca của riêng mình, một cấu trúc hiện đại, khác hẳn các nhà thơ mới, mà cũng không giống thi pháp của Hàn Mặc Tử.

Thi pháp Bích Khê

Thơ Bích Khê là sự giao lưu giữa thơ cổ và thơ hiện đại, trong một kiến trúc âm nhạc và hội họa. Đặc biệt trong lối tạo hình, ông đã sử dụng một phương pháp mới, lúc ấy chưa thịnh hành ở Việt Nam: phương pháp cắt dán (collage).
Bài Tỳ bà của Bích Khê là một khúc ngâm mới, dựa trên tinh thần Tỳ bà hành.
Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, bản dịch của Phan Huy Thực (nhiều nơi vẫn còn ghi là của Phan Huy Vịnh, con trai Phan Huy Thực) có những lời tuyệt bút:
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt,
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng ngắt, bấy giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông (Tỳ bà hành diễn nôm)

Tỳ bà hành là sự giao hoà âm nhạc và cảnh sắc trong một bút pháp thần diệu. Bích Khê mượn tinh thần Tỳ bà hành, tức là tinh thần giao hoà âm nhạc và cảnh sắc, nhưng thay đổi toàn diện bối cảnh, kiến trúc âm nhạc và kiến trúc hình ảnh, để tạo ra một tác phẩm hiện đại:

Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi ! nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê

Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi

Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô ! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi ! Vàng rơi: Thu mênh mông (Tỳ bà)

Phạm Duy - vẫn Phạm Duy - là người duy nhất nghe thấy tiếng nhạc lạ trong bài Tỳ bà và ông đã tạo ra một ca khúc réo rắt, âm hưởng giao thoa kim cổ. Phải nghe Thái thanh hát Tỳ bà mới thấm được cõi nghệ thuật linh diệu của ba thiên tài: Bích Khê, Phạm Duy, Thái Thanh.
Kiến trúc âm nhạc trong Tỳ bà Bích Khê dựa trên âm bằng (dấu huyền hoặc không có dấu). Toàn bài hầu như không có âm trắc (sắc, hỏi, ngã, nặng). Lối lập âm này, trong thơ mới, có một số người đã làm (đặc biệt Phạm Huy Thông), nhưng không mấy ai thành công như Bích Khê. Vì chỉ có âm bằng nên nhạc thơ đổi cung bậc, không còn điệu cổ điển và cũng khác hẳn thơ mới.
Về mặt tạo hình, lần đầu tiên, trong Tỳ bà, một nghệ sĩ Việt áp dụng thủ pháp cắt dán: các hình ảnh được "cắt dán" rồi ghép cạnh nhau, cho nên ảnh sau không "liên hệ" gì đến ảnh trước. Ví dụ, trong câu Vàng sao nằm im trên hoa gầy, hai hình ảnh vàng sao và hoa gầy, chẳng dính dáng gì với nhau, nhưng được nhà thơ cho nằm im trên nhau. Sự kiện này hầu như không có trong thơ cổ điển và thơ mới. Vì trong cấu trúc cổ điển và lãng mạn, chữ đi đôi với nghĩa, cho nên các yếu tố chữ phải có liên hệ chặt chẽ, để tạo thành một câu "có nghiã". Trong khi "vàng sao nằm im trên hoa gầy" của Bích khê là một câu gần như "vô nghiã".
Lại cần phải phân biệt một điểm nữa: việc Bích Khê đem hình ảnh sao vàng ở trên trời xuống, cho nó nằm im trên hoa gầy (dưới đất) là một động tác cắt dán; không giống với động tác của Hàn Mặc Tử trong những câu " Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối" hay "Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ / Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu" là những động tác tưởng tượng. Và cũng không giống câu: "Bóng gương lồng bóng đồ mi chập chùng", Nguyễn Gia Thiều dùng biện pháp ẩn dụ: bóng gương để chỉ nhà vua, bóng đồ mi, người cung nữ.
Tóm lại, cùng mô tả một cảnh "mây mưa", mỗi nhà thơ có một thủ pháp khác nhau, để đi tới đích.
Những phương pháp khác nhau đó, phản ánh thời đại, lối viết, và cá tính của nhà thơ: Ôn Như Hầu dùng ẩn dụ, phong cách tạo hình trong thơ cổ điển. Hàn Mặc Tử dùng tưởng tượng, một phong cách sáng tạo hiện đại phát triển từ Thi sơn (Parnasse). Và Bích Khê dùng phương pháp cắt dán (collage) trong hội hoạ hiện đại (Matisse). Nhưng việc đặt những yếu tố hoàn toàn khác nhau cạnh nhau, còn là phương pháp của Siêu thực nữa.

Cho nên có thể nói rằng ngay từ năm 1936, Bích Khê đã áp dụng những phương pháp rất mới của Tây phương để làm thơ, trong một tinh thần hết sức Đông phương.

Cấu trúc gián đoạn

Hình ảnh trong thơ Bích Khê là do cát dán lắp ghép. Hình ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử là do tưởng tượng. Nhìn bề ngoài có vẻ giống nhau nhưng thật ra rất khác: Tuy Hàn Mặc Tử là "thày" của Bích Khê, nhưng thơ Bích Khê "hiện đại" hơn thơ Hàn, vì có thêm kỹ thuật cắt dán và siêu thực, mà Hàn chưa kịp tiếp thu, đã mất. Nhưng cùng trong hoàn cảnh bệnh hoạn, Bích Khê không cô đơn, tuyệt vọng như Hàn, nên thơ Bích Khê không đạt được mức đớn đau tuyệt đỉnh và tuyệt tác như thơ Hàn Mặc Tử.
Biện pháp siêu thực trong thơ Bích Khê hiện rõ ở cả chữ, lẫn câu: Ông không chỉ để hai hình ảnh khác nhau cạnh nhau, mà còn để cả hai câu thơ hoàn toàn khác nhau cạnh nhau, như:
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây.
Câu trên mô tả sự khăng khít xác thịt: Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Câu dưới: Tương tư người xưa thôi qua đây, mô tả sự tan vỡ.
Nói đúng hơn, vừa đang yêu: tương tư, vừa tan vỡ: người xưa thôi qua đây.
Bích Khê đã đảo lộn trật tự thời gian sống, để tạo một nghịch cảnh, nghịch lý mới: thường thì người ta tương tư, rồi khăng khít và sau cùng mới lìa nhau; đằng này, người ta khăng khít trước, rồi mới tương tư, rồi xa nhau.
Tóm lại câu thơ của Bích Khê không có logique, vì vậy mà Hoài Thanh và nhiều người khác đọc không hiểu. Hoài Thanh ca tụng câu:
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông!
Vì đó là câu thơ hay, dễ hiểu. Sau này người ta cứ chép lại lời Hoài Thanh như cái máy, và không cần tìm hiểu gì thêm nữa về thơ Bích Khê.
Tỳ bà là một trong những bài thơ đầu tiên của Việt Nam có cấu trúc gián đoạn: Bích Khê dán những chữ không liên lạc gì với nhau cạnh nhau, dán những câu không liên lạc với nhau lại gần nhau, để tạo ra những hình ảnh tuyệt vời, hoàn toàn siêu thực: tay-đêm, giăng-mền, trăng- đan, mây-nhung, thuyền-hồn...

Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mền
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung phơi màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi

Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Dây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu. (Tỳ bà)

Mỗi câu thơ của Bích Khê là một đứt đoạn: Bích Khê là nhà thơ tiên phong, đã đi trước thời đại, thể hiện sự đứt đoạn trong không gian và trong thâm hồn. Sự đứt đoạn của đời sống là một trong những khám phá của nghệ thuật hiện đại trong toàn bộ thơ, văn, nhạc, hoạ, từ đầu thế kỷ XX. Bởi mỗi ý nghĩ của chúng ta là một đứt đoạn, mỗi hình ảnh chúng ta nhìn thấy trong đời sống là một đứt đoạn.
Bích Khê đã nhìn thấy sự đứt đoạn đó từ những năm 1936-39. Và bẵng đi một thời gian dài, mãi sau này, ở miền Nam mới thấy xuất hiện trong thơ Thanh Tâm Tuyền, trong ca từ Trịnh Công Sơn, và ở miền Bắc, trong thơ Lê Đạt.

*

Không nên đọc thơ Bích Khê như thơ cổ điển hoặc thơ mới, vì Bích Khê không làm thơ theo logique truyền thống, nghiã là thơ có mạch lạch có nghiã. Nên đọc thơ ông như xem tranh: khi ấn tượng, khi lập thể, khi siêu thực, khi trừu tượng... và cuộc triển lãm này có nhạc đệm.
Khó phân biệt được lúc nào Bích Khê dùng bút để viết, lúc nào ông vung cọ để vẽ, lúc nào ông vung đũa để đánh nhạc.
Và cũng cần phân biệt nhạc trong thơ Bích Khê khác với nhạc trong thơ Hàn Mặc Tử: Nhạc trong thơ Hàn là nhạc thầm trong mỗi chữ. Nhạc trong thơ Bích Khê là nhạc nổi trong thanh âm lạ, âm bằng.
Ở những bài thật hay, thơ Bích Khê là sự hoà âm giữa các điệu nhạc cổ, như điệu Hoàng hoa, điệu Mộng cầm, với những màu sắc tân kỳ của hội hoạ hiện đại :

Lam nhung ô ! màu lưng chừng trời;
Xanh nhung ô ! màu phơi nơi nơi.
Vàng phai nằm im ôm non gầy;
Chim yên eo mình nương xương cây.
Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa :
Đông nam mây đùn nơi thành xa...

Oanh già theo quyên quên tin chàng !
Đào theo phù dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;
Theo chàng ta làm con chim uyên;
Làm mây theo chàng bên nhung yên.

Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
- Hồn ta? hay là hồn tình lang ?
Non Yên tên bay ngang muôn đầu...
Thâm khuê oan gì giam xuân sâu ?
- Ai xây bờ xanh trên xương người ?!
- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?! (Hoàng hoa)

Bài Hoàng hoa thể hiện rõ sự giao hưởng giữa thơ và họa. Nhà thơ như một cánh chim, bay qua những khung cảnh khác nhau, vẽ lại trước mắt ta những bức tranh khác nhau, trong cùng một khoảnh khắc: Vàng phai nằm im ôm non gầy / Chim yên eo mình nương xương cây / Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa / Đông nam mây đùn nơi thành xa...
Những bức tranh trên đây (phần nhiều là ấn tượng) chỉ khơi cảm xúc, mà không mô tả. Ví dụ, trong bức đầu: Vàng phai nằm im ôm non gầy
Người đọc, người xem, người nghe, không thấy rõ hiện tượng "vàng phai nằm im ôm non gầy" nó như thế nào, mà chỉ mơ hồ cảm thấy một ấn tượng nào đó.
Những câu thơ kế tiếp cũng thế: Chim yên eo mình nương xương cây, rồi Đông nam mây đùn nơi thành xa, toàn là những bức ấn tượng, mơ hồ như sương phủ.


Ấn tượng mờ sương

Vì đâu có cảm tưởng mờ sương toả lên từ những bức tranh?
Khảo sát kỹ hơn, trong Vàng phai nằm im ôm non gầy, sự mờ sương toả ra ở bốn chữ vàng phai nằm im.
- Ai nằm im ?
- Một màu nằm im
- Màu gì ?
- Màu vàng. Không hẳn thế, màu vàng phai.
Nhưng không ai biết và không ai có thể định nghĩa được màu vàng phai ấy như thế nào?
Và cũng không ai có thể hình dung "vụ" vàng phai đó nằm im trên non gầy đó, như thế nào? Ấy là chưa kể: non gầy là gì?
Các vị kiểm duyệt thơ hoặc phê bình thơ nhưng không biết thơ, thường hay phê câu này, câu kia vô nghĩa, là vì thế.
Cho nên, nếu không phải là thi-họa sĩ, thì không thể vẽ được những hình ảnh Vàng phai nằm im ôm non gầy, ấy.
Sự gợi hình trong thơ Bích Khê, luôn luôn bắt nguồn từ hội hoạ, từ cách tạo ấn tượng trong lòng người xem trước, rồi mới nghe và đọc.

Bài Hoàng hoa, không chỉ bắc cầu giữa hội hoạ và âm nhạc, mà còn là nhịp cầu kim cổ. Hoàng Hoa, vùng đất Trung Hoa, thời Chiến quốc và đời Đường thường có "rợ" Hồ quấy nhiễu. Hoàng Hoa là bãi chiến trường.
Hoàng hoa còn là cúc vàng. Hoa cúc nở mùa thu, mùa lá vàng và cũng là lúc các thanh niên, thời chiến quốc, đến tuổi đi lính phải nhập ngũ, đi "quân dịch", năm sau mới về. Vì vậy Hoàng hoa vừa là cúc vàng, vừa là bãi chiến trường, vừa là thời đi lính.

Trong Chinh phụ ngâm có câu :
Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài
Chữ Hoàng hoa trong Chinh phụ ngâm có hai nghiã: vừa là hoàng hoa thú (người lính thú ở chiến trường), lại còn có thể là trại cúc vàng, nơi người chinh phụ tựa cửa nhớ chồng ngoài quan ải.
Vì vậy, hai câu: Đây mùa hoàng hoa mùa hoàng hoa/ Đông nam mây đùn nơi thành xa... tưởng như không có gì liên hệ với nhau, nhưng thực ra đó chính là khúc chinh phụ ngâm mới của Bích Khê, ngẫu hứng từ những câu: Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài và Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt trong Chinh phụ ngâm.

Người chinh phụ ngày xưa, ngâm:

Thủa lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về ước nẻo oanh ca
Nay quyên đã giục oanh già
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
Thủa đăng đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại đã bên sông bơ xờ (Chinh phụ ngâm)

Và người chinh phụ ngày nay, trong thơ Bích Khê, hát:
Oanh già theo quyên quên tin chàng !
Đào theo phù dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;
Theo chàng ta làm con chim uyên;
Làm mây theo chàng bên nhung yên

Cùng bối cảnh nhớ chồng đi chinh chiến, nhưng hai khúc ngâm, xưa và nay, khác nhau.

Và đây, cảnh chết chóc nơi chiến trường, trong Chinh phụ ngâm:
Non Kỳ mộ chỉ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn?

Trong thơ Bích Khê, sa trường là giao hưởng giữa những hồn ma chiến trường trong cơn ác mộng của người chinh phụ:

Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
- Hồn ta? hay là hồn tình lang ?
Non Yên tên bay ngang muôn đầu...
Thâm khuê oan gì giam xuân sâu ?
- Ai xây bờ xanh trên xương người ?!
- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!

Ánh sáng trong thơ Bích Khê

Thơ Bích Khê là sự gặp gỡ hai không gian cổ điển và hiện đại, là sự hoà tan hai không gian ấy trong lòng chữ. Nhìn một lõa thể, một cảnh thu, một vũ khúc, Bích Khê không vẽ lại những ấn tượng ấy trong hiện tại mà ông đẩy lùi chúng về hàng trăm năm, hàng ngàn năm trước, rồi mới đem chúng vào thơ.
Ví dụ, nhìn một điệu múa, Bích Khê viết :

Ô trời hôm nay sao mà xanh!
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành,
Nhung mây tê ngời sao kim cương,
Dạ lan tê ngời say men hương;

Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô? (Nghê thường)

Vũ điệu trong thơ không còn là vũ điệu trước mắt ta nữa mà đã trở thành vũ điệu nghê thường của Đắc Kỷ, Bao Tự... trên cung Quảng.
Nhưng những khơi gợi ấy, lần này đến từ ánh sáng, thứ ánh sáng mơ hồ huyền ảo của một đêm trăng giữa ban ngày: Ô trời hôm nay sao mà xanh! / Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành / Nhung mây tê ngời sao kim cương. Tất cả những chữ: trời, xanh, ngọc, trăng, vàng, mây, ngời, sao, kim cương... trong ba câu thơ, đều tỏa sáng. Trong luồng sáng huyền ảo ấy, một đoá lan đêm (dạ lan) gây hương lạ trong câu thơ nối tiếp, chia thế giới làm hai: thế giới của ánh sáng và thế giới của bóng tối qua một chữ dạ (nghiã là đêm): Dạ lan tê ngời say men hương. Rồi tiếp theo đó là một chuỗi những ánh sáng lạ khác:
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô?
Không thể biết những luồng sáng như ánh lưu ly, ánh hoa lê, ánh thuỷ tinh, ánh gương hồ, ánh xà cừ, ánh san hô... chiếu vào người đẹp trên lầu hay chính người đẹp trên lầu toát ra những ánh sáng huyền ảo ấy. Tất cả bí mật ở đây nằm trong ánh sáng và thơ dựa vào ánh sáng để hiện hữu, y hệt như trong hội hoạ ấn tượng. Nhà thơ chưa vẽ, chưa đả động gì đến người đẹp, nhưng nàng đã xuất hiện: một sự xuất hiện liêu trai, mờ ảo, nghê thường, qua ánh sáng của vật chất chung quanh.
Và đó là lối tạo chân dung bằng ánh sáng trong thơ Bích Khê.

Trong bài Hiện hình, lại một chân dung khác, vẽ theo lối hiện thực hơn:

Tôi ráp lại xem. Ồ! sự lạ!
Một người thiếu nữ hiện trong trăng.
Khăn hồng chùi lệ ngấn đôi mắt;
Da thịt phô bày ý tuyết băng.
Nường hé môi ra. Bay điệu nhạc
Mát như xuân mà ngọt tợ hương:
Ôi sao là khúc Ba sinh lụy
Rào rạt như đầy nỗi cảm thương
Tiếng ngọc, màu trăng quấn quýt nường
Phút giây người lộ mỏng như sương
-Nường tan ra nhạc? - tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường! (Hiện hình)

Người con gái trong bức tranh này hội tụ hai yếu tố tiếng và màu: tiếng ngọc,màu trăng.
Không biết chân dung nàng được vẽ bằng nhạc hay nàng chính là âm thanh?
Dường như bút lông của hoạ sĩ chấm vào nghiên nhạc để vẽ ra chân dung nàng. Rồi cát bụi, nàng lại trở về với cát bụi:
-Nường tan ra nhạc? - tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường!

Mỗi chân dung người đẹp mà Bích Khê phác lên thường có những nét Bích câu kỳ ngộ. Bức Tranh loã thể là Giáng Kiều khoả thân trong óc người con trai mới lớn đầy khát vọng nhục tình :

Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu dây?
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi.
Hai vú nàng! hai vú nàng! chao ôi!
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng.
Ôi lồ lộ một toà hoa nghiêm động!
Tôi run run hãm lại cánh hồn si...
Ồ hai tay rơi chén ngọc lưu ly;
Ồ hai chân nở màu sen ẻo lả;
Cho tôi nàng! cho tôi nàng! tất cả...
Tôi miên man uống lại mộng quỳnh dao
Cho đê mê, chới với, hồn lên cao,
-Một tinh cầu sẽ tan ra biển lệ. (Tranh lõa thể)

Tranh lõa thể, một tác phẩm tuyệt vời mà âm nhạc và màu sắc dâng lên theo nhịp rung thể xác. Chàng trai đứng trong phòng triển lãm, trước bức tranh khoả thân có dáng dấp của một người xưa, chàng vào mộng, trở lại hàng ngàn năm trước, sống lại giấc mơ Tú Uyên- Giáng Kiều.
Hoặc ngược lại, chàng chính là Tú Uyên, đứng trước bức họa Giáng Kiều vừa hoàn tất, chàng xao động bối rối, sống một giấc mơ mới mà nhịp độ thể xác đồng tiến với đam mê, với âm nhạc, màu sắc và thời gian.
Chàng đã vượt ra trên lễ giáo cổ truyền để tiến tới tự do nghệ sĩ, dám phô bày nhục cảm xác thịt của mình trên trang giấy: Tú Uyên đã "hiện đại hoá tư tưởng" của mình qua thơ Bích Khê: Bích Khê nói hộ người xưa những ẩn ức dục tình của họ bằng tiếng thơ đời nay.

Đôi mắt Bích Khê

Châu, bài thơ cuối trong tập Tinh huyết là một trường khúc, diễn tả hành trình sáng tạo của Bích Khê, hành trình biến hoá từ chữ sang châu. Bài thơ có ba phần:
Phần I, định nghiã những cái đẹp: Đẹp câm trong pho tượng. Đẹp huyền ảo của người trong mộng. Đẹp rã rượi của tiếng đàn, của đôi mắt mùa thu. Đẹp đau thương trong đôi mắt lệ, biến thành giọt châu.
Phần II, sự chuyển hoá từ cái đẹp sang cảm xúc và rung động trong tâm hồn nhà thơ.
Phần III, sự biến hoá những tinh lực, những rung động trong tâm hồn nhà thơ thành những giọt châu.
Đối với Bích Khê mắt là tác nhân chính và châu là thành quả của sáng tác.
Bích Khê coi mắt và châu như những tinh thể của thi ca.
Mắt nơi Bích Khê, tương đương với tưởng tượng nơi Hàn Mặc Tử.
Nếu Hàn Mặc Tử dùng óc tưởng tượng để sáng tạo thì Bích Khê dùng mắt để làm thơ.
Và đó là sự khác biệt sâu xa giữa hai người: Tất cả tinh anh nơi Bích Khê tụ vào đôi mắt. Nếu ai gần Bích Khê, chắc không thể nào tránh khỏi bị cuốn hút bởi đôi mắt. Ngày nay, chúng ta chỉ còn lại tấm ảnh duy nhất, chân dung một thiếu niên, có đôi mắt to đen đẹp tuyệt vời.
Bích Khê đã diễn tả hành trình sáng tạo của mình như sau: Trước tiên nhà thơ tiếp nhận những cảm xúc của thiên nhiên và đời sống, rồi nhập đồng trong tâm hồn:
Tôi dường nghe trong một phút mê man
Hồn thanh thiên cho đến phách dương gian
Đều vỡ lở cho rung rinh thần thức
-Một thế giới mờ đi trong sáng đục
Và im hơi cho xuất khí âm hư...
Từ vùng đồng thiếp ấy, đánh lên những âm giai và màu sắc, và những yếu tố này đọng lại trong ánh mắt, rồi từ tinh cầu mắt đó, biến thành những giọt châu thơ:

Sao? Màu nàng vấn vít lấy màu thơ
Với tình tiết và tên hoa vô thượng
Với đôi mắt đẹp câm trong sắc tượng
Biến ra châu nguyên vẹn cốt thiên đàng
Nên Thiên Tài đang tắm ở suối vàng
Theo trực giác bay lên nguồn ngọc lệ

Như thế, mỗi lần nhả châu trong mắt ngọc, thiên tài phải chết đi trong đê mê huyền bí, trong giếng loạn của tâm hồn:

Cho đã khát trong đê mê huyền bí
Ánh tiên tri nức nở sóng anh linh
Đường kinh tuyến hút nhiễm chất vô hình
Dẫn địa ngục đi vào đôi giếng loạn?

Đỉnh hoang loạn thể xác và tâm hồn cũng là đỉnh thơ: muốn đạt tới thơ, tức cõi châu, nhà thơ phải thăng hồn tới cực của đớn đau hoang loạn, tới sự mất trí, tới sự rã rời thể xác, tới xuất huyết, tới địa ngục và thiên đàng:

Tôi chết ngay đây chẳng nói rằng
Cả mình lạnh khớp đến hàm răng
Thần gì đã xuất ra đôi mắt
Vội đẩy hồn tôi tới bóng giăng

Một bóng giăng rồi một bóng giăng
Hồn vẫn phiêu lưu rất nhẹ nhàng
Đến mút không gian là bát ngát
Một trời thơ mộng đẹp mê man

Và trong vùng ánh sáng và âm thanh thần tiên ấy, đôi mắt thần tiên hiện ra:

Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng thu
Bỗng đôi mắt ngọc hiện xanh mờ...
Và châu và báu và thanh khí
Nức nở tan thành vạn giọt thơ

Đạt đến cõi thơ, mọi sự lại bắt đầu trở lại.
Toàn bài thơ là hành trình của sáng tác, trong một vòng tử sinh huyền bí:

Tối hôm nay mùa thu đang ảo não
Trong gió rên và trong lá vàng bay
Mỗi gân trắng rúng rẩy một luồng say
Mỗi hơi thở hoa hồng vang nức nở
Và mạch máu không gian dường vỡ lở
Hú ma điên... kinh động vạn hồn đau

Muôn u phiền đầy đặc ứ trong đầu
Muôn sầu hận xây mồ ngay giữa phổi
Tôi ngây ngất trong bể lòng sôi nổi
Để hồn mê trôi dạt cõi xa mơ
Mình lặng ngồi trên tảng đá trơ vơ
Tình khóc mướt trong đêm thu ấp ủ

Đôi mắt Bích Khê chính là nguồn sáng tạo, nguồn khổ đau và hạnh phúc. Chưa ai hỏi mắt mình: Người là ai? Nhà thơ cũng không biết rõ nguồn sáng trong đôi mắt ấy từ đâu đến và sẽ dẫn mình đến đâu? Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn như người ta thường nói, nhưng linh hồn Bích Khê là một cõi huyền bí xa lạ, của một cuộc đời ngắn ngủi trên dương gian, nhưng vô tận ở cõi siêu hình:

Hỡi đôi mắt! Nơi người là ngọc thạch
Nơi giếng người phản chiếu ảnh thiên thần
Nơi suối người giữ kín tiếng châu ngân
Nơi triển lãm cả một bầu tiên động
Nơi rung rinh cả một trời thơ mộng
Người là ai?Người hỡi! Người là ai?
-Nhưng đôi mắt lờ lặng và mê say
Nhìn đắm đuối không một lời náo nức

Nhạc khiêu vũ đâu đây lan sóng múa
Tôi tưởng chừng... da thịt biến ra thơm
Những đầu lâu rã hết khí xanh dờn
Những xiêm áo bay rờn trong cảnh mộng
Cả địa ngục đi vào trăm lỗ hổng
Bắn tinh ra trộn trạo giữa nguồn hương

-Hỡi đôi mắt! hồ thuỷ tinh trong suốt
Soi trần gian địa ngục vạn đời ma
Hãy nói tên thần bí của muôn hoa
Hãy kể hết nhiệm mầu muôn thế giới
Những bí quyết khí nhạc lên vời vợi
Những màu thiêng khi đau khổ lên cao
Những thơm ngào phối hiệp giữa trăng sao
Những khoái trá truyền qua hai xác thịt
Bằng hơi điện - bằng hơi điên tha thiết
Người là ai? người hỡi ! người là ai ?
-Nhưng đôi mắt lờ lặng và mê say
Nhìn đắm đuối, không một lời náo nức

Bích Khê, ngàn đời sau vẫn còn là vì tinh tú mới, chiếu vào cõi thơ, bằng đôi mắt ngọc của một thiên thần, biến chữ thành châu.

tửu tận tình do tại
25.00