官池春雁其一

自古稻粱多不足,
至今鸂鶒亂為群。
且休悵望看春水,
更恐歸飛隔暮雲。

 

Quan Trì xuân nhạn kỳ 1

Tự cổ đạo lương đa bất túc,
Chí kim khê xích loạn vi quần.
Thả hưu trướng vọng khán xuân thuỷ,
Cánh khủng quy phi cách mộ vân.

 

Dịch nghĩa

Từ xưa gạo kê không đủ nhiều,
Tới giờ chim khê sắc mới tụ họp một bầy lau nhau.
Cứ cho nhìn ngóng chán chê nước xuân đi,
Rồi cũng sợ rằng bay về nơi có mây chiều.


(Năm 763)

Quan Trì nay là trấn Quan Trì, thuộc huyện Hứa Xương, tỉnh Hà Nam. Thời Tam Quốc, do ở đây đất phì nhiêu, nguồn nhiều, nước trong nên quan tướng của Tào Tháo thường cho ngựa tới đây uống, do đó có tên là Quan Trì (ao quan).

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phan Ngọc

Kê, gạo từ xưa thường chẳng đủ
Ngày nay vịt nước loạn thành bày
Nước xuân khoan vội nhìn mê mải
Nên sợ chiều về khó cách bay


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Chữ "quan" ở tựa bài thơ

Dịch chữ Hán sang chữ Việt chưa chỉnh.

Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Từ xưa gạo thóc ăn không đủ,
Tới giờ khê sắc tụ thành bầy.
Nếu thôi không ngóng nước dâng lớn,
Lại sợ bay về cách đám mây.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Từ xưa gạo kê nhiều không đủ
Nay chim le hội tụ một bầy
Nước xuân buồn ngắm hãy thôi
Sợ bay về cách mây trời hoàng hôn.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Nam Thắng

Xưa nay gạo chẳng đủ nhiều
Một bầy khê xích cuối chiều đùa chơi
Ngắm nhìn xuân nước đầy vơi
Sợ rằng cũng sẽ bay nơi mây ngàn

Chưa có đánh giá nào
Trả lời