Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Phiêu bạc tây nam (760-770)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 06/03/2015 23:16
忽忽峽中睡,
悲風方一醒。
西來有好鳥,
為我下青冥。
羽毛淨白雪,
慘澹飛雲汀。
既蒙主人顧,
舉翮唳孤亭。
持以比佳士,
及此慰揚舲。
清文動哀玉,
見道發新硎。
欲學鴟夷子,
待勒燕山銘。
誰重斷蛇劍,
致君君未聽。
志在麒麟閣,
無心雲母屏。
卓氏近新寡,
豪家朱門扃。
相如才調逸,
銀漢會雙星。
客來洗粉黛,
日暮拾流螢。
不是無膏火,
勸郎勤六經。
老夫自汲澗,
野水日泠泠。
我歎黑頭白,
君看銀印青。
臥病識山鬼,
為農知地形。
誰矜坐錦帳,
苦厭食魚腥。
東西兩岸坼,
橫水注滄溟。
碧色忽惆悵,
風雷搜百靈。
空中右白虎,
赤節引娉婷。
自雲帝裏女,
噀雨鳳凰翎。
襄王薄行跡,
莫學冷如丁,
千秋一拭淚,
夢覺有微馨。
人生相感動,
金石兩青熒。
丈人但安坐,
休辨渭與涇。
龍蛇尚格鬥,
灑血暗郊坰。
吾聞聰明主,
治國用輕刑。
銷兵鑄農器,
今古歲方寧。
文王日儉德,
俊乂始盈庭。
榮華貴少壯,
豈食楚江萍。
Hốt hốt giáp trung thuỵ,
Bi phong phương nhất tinh.
Tây lai hữu hảo điểu,
Vị ngã há thanh minh.
Vũ mao tịnh bạch tuyết,
Thảm đạm phi vân đinh.
Ký mông chủ nhân cố,
Cử cách lệ cô đình.
Trì dĩ bỉ giai sĩ,
Cập thử uỷ dương linh.
Thanh văn động ai ngọc,
Kiến đạo phát tân hình.
Dục học Si Di tử,
Đãi lặc Yên sơn minh
Thuỳ trùng đoạn xà kiếm,
Trí quân quân vị thinh.
Chí tại kỳ lân các,
Vô tâm vân mẫu bình.
Trác thị cận tân quả,
Hào gia chu môn quynh.
Tương Như tài điều dật,
Ngân Hán hội song tinh.
Khách lai tẩy phấn đại,
Nhật mộ thập lưu huỳnh.
Bất thị vô cao hoả,
Khuyến lang cần lục kinh.
Lão phu tự cấp giản,
Dã thuỷ nhật linh linh.
Ngã thán hắc đầu bạch,
Quân khan ngân ấn thanh.
Ngoạ bệnh thức sơn quỷ,
Vi nông tri địa hình.
Thuỳ căng toạ cẩm trướng,
Khổ yếm thực ngư tinh.
Đông tây lưỡng ngạn sách,
Hoành thuỷ chú thương minh.
Bích sắc hốt trù trướng,
Phong lôi sưu bách linh.
Không trung hữu bạch hổ,
Xích tiết dẫn phinh đình.
Tự vân đế lý nữ,
Tốn vũ phụng hoàng linh.
Tương Vương bạc hành tích,
Mạc học lãnh như đinh.
Thiên thu nhất thức lệ,
Mộng giác hữu vi hinh.
Nhân sinh tương cảm động,
Kim thạch lưỡng thanh huỳnh.
Trượng nhân đãn an toạ,
Hưu biện Vị dữ Kinh.
Long xà thượng cách đấu,
Sái huyết ám giao quynh.
Ngô văn thông minh chủ,
Trị quốc dụng khinh hình.
Tiêu binh chú nông khí,
Kim cổ tuế phương ninh.
Văn vương nhật kiệm đức.
Tuấn nghệ thuỷ doanh đình.
Vinh hoa quý thiếu tráng,
Khởi thực Sở giang bình.
Trong vùng kẽm mình đang cơn nồng,
Gió buồn làm mình tỉnh mộng.
Có con chim đẹp từ phương tây bay tới,
Vì ta mà hạ cánh xuống từ trời xanh,
Lông toàn là tuyết trắng,
Rầu rĩ bay vào bến mây.
Đã ghi lòng mến của chủ nhân,
Cất cánh kêu nơi đình vắng.
Giữ cái này để mà xét người tài,
Tới mức đó yên lòng để thuyền trôi.
Thấy cách xử trí từ va chạm mới,
Vằn trong gây xúc động cho ngọc buồn.
Muốn học theo ông Si Di,
Nhưng hãy đợi ghi tên trên núi Yên đã.
Ai là người lại dùng kiếm chém rắn,
Giúp vua mà vua chưa chịu nghe.
Chí tại gác kỳ lân,
Chẳng lưu ý gì đến bức bình phong khảm đá quý.
Họ Trác mới goá chồng,
Nhà giàu cửa son khép kín.
Tương Như tài hơn người,
Như hai ngôi sao sáng trong dải Ngân Hà.
Khách tới rửa sạch son phấn,
Ban đêm đi bắt đom đóm bay.
Không phải là không có lửa sáp,
Chính là khuyên chàng chuyên bề học sáu kinh.
Thân già này từ ngày múc ngòi,
Nước đồng ngày càng rào rào.
Tôi than đầu xanh nay đà trắng,
Anh thấy ấn bạc xanh.
Nằm bệnh biết quỷ núi,
Làm ruộng hiểu thế đất.
Ai là kẻ vênh váo ngồi trong tướng gấm,
Chán ngán ăn cá tanh.
Đông tây hai bờ tách rời,
Nước ngang chảy vào bể xanh.
Sắc biếc bỗng ngần ngại,
Sấm gió thu trăm hồn.
Trong không có hổ trắng,
Cờ đỏ dẫn giắt gái xinh.
Từ thần mây có cô gái,
Phun mưa như cánh chim phượng hoàng.
Sở Tương Vương vết tích nay mờ rồi,
Chớ có học cái lạnh như đinh,
Cả ngàn năm khi lau nước mắt,
Mộng tỉnh rồi còn thấy hương thoang thoảng.
Đời người cùng xúc động,
Cả hai vàng đá cùng tạo ánh chói lọi.
Ông nay đã ngồi yên,
Hết phân biệt sông Vị với sông Kinh.
Rồng rắn vẫn còn đang vờn chọi nhau,
Máu đổ đầy gò đồng.
Tôi nghe nhà vua nếu sáng suốt,
Việc nước chỉ dùng đến hình phạt nhẹ.
Nấu chảy binh khí để mà đúc dụng cụ cho nhà nông.
Năm trước năm nay sẽ được yên ổn,
Chu Văn Vương thận trọng về cái đức của mình trong cả công việc hàng ngày,
Nên các người tài giỏi mới tới chật cả nhà.
Lúc trẻ mà có được giàu sang phú quý,
Thì há phải ăn bèo nơi sông Sở.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 06/03/2015 23:16
Trong kẽm đang mơ màng,
Gió buồn làm tỉnh mộng.
Phía tây, con chim thiêng,
Vì ta, từ trời xuống.
Bộ lông tuyết trắng tinh,
Mây bến bay lờ lững.
Đã được chủ nhân yêu,
Tung cánh đậu đình vắng.
Lấy gương người hiền kia,
Tới đó, thuyền chèo thẳng.
Vết trong hại ngọc buồn,
Gặp khó càng cố gắng.
Muốn theo gương Si Di,
Đợi núi Yên tạc tượng.
Lại chém rắn là ai,
Giúp vua, vua không khứng.
Quyết mong cùng lập công,
Cảnh giàu sang hờ hững.
Gái goá họ Trác gần,
Nhà giàu cửa son đóng.
Tương Như tài lẳng lơ,
Ngân hà hai sao rạng.
Khách tới rửa phấn son,
Chiều tối bắt đóm sáng.
Đâu phải thiếu đèn cầy,
Học hành khuyên chàng ráng.
Già này tự múc ngòi,
Nước đồng ngày chẳng lắng.
Đầu đen bạc, tôi than
Ấn bạc xanh, anh nựng.
Mắc bệnh, quỷ núi rành,
Hiểu thế đất: cày ruộng.
Chán ăn đồ cá tanh,
Ai ưa ngồi trong trướng.
Chia hai bờ đông, tây,
Ra biển nước tuôn thẳng.
Gió sấm lùng trăm thần,
Tái xanh vẻ trù trướng.
Cờ đỏ dẫn gái xinh,
Trên trời có hổ trắng.
Trong có gái thần mây,
Phun mưa như cánh phượng.
Tương vương vết nay mờ,
Hờ hững chớ học mửng.
Nước mắt ngàn năm lau,
Tỉnh giấc hương còn thoảng.
Đời người cùng cảm thông,
Vàng đá đều toả sáng.
Ông nay đã ngồi yên,
Thôi nghĩ chuyện sai, đúng.
Rắn rồng vẫn vờn nhau,
Máu chảy đầy đồng áng.
Tôi nghe chúa sáng ngời,
Trị nước, bỏ phạt nặng.
Nấu gươm, đúc cày bừa,
Xưa nay yên ngày tháng.
Hiền tài tới đầy nhà,
Văn vương ngày lo lắng.
Bèo sông Sở khỏi ăn,
Công danh lúc thiếu tráng.