懷錦水居止其一

軍旅西征僻,
風塵戰伐多。
猶聞蜀父老,
不忘舜謳歌。
天險終難立,
柴門豈重過。
朝朝巫峽水,
逗遠錦江波。

 

Hoài Cẩm thuỷ cư chỉ kỳ 1

Quân lữ tây chinh tích,
Phong trần chiến phạt đa.
Do văn Thục phụ lão,
Bất vong Thuấn âu ca.
Thiên hiểm chung nan lập,
Sài môn khởi trùng qua.
Triêu triêu Vu Giáp thuỷ,
Đậu viễn Cẩm giang ba.

 

Dịch nghĩa

Quân đội tiến về phía tây dẹp loạn,
Gió bụi do giao tranh nổi lên ở nhiều nơi.
Còn nghe ông già bà cả ở đất Thục,
Vẫn chưa quên bài hát ca ngợi đời vua Thuấn thanh bình.
Địa thế Thành Đô hiểm trở mà cũng khó đứng vững,
Huống chi thảo đường của ta mong chi trở lại.
Sáng sáng nhìn sông nước ở Vu Giáp,
Nhớ sóng sông Cẩm nay ở nơi xa xôi rồi.


Đỗ Phủ viết bài này khoảng năm 765. Do Thành Đô có loạn, ông đưa gia quyến rời thảo đường, xuống thuyền lánh nạn tại Quỳ Châu. Cẩm thuỷ là con sông nhỏ chảy qua thảo đường.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Quân đội tiến về tây chinh chiến
Bụi giao tranh binh biến nhiều nơi
Ông già đất Thục còn lời
Ngợi ca vua Thuần, tiếc đời bình an
Thế Thành Đô hiểm còn khó giữ
Huồng hồ chi nhà cỏ của ta
Sáng nhìn Vu Giáp xa xa
Nhớ dòng Cẩm thuỷ xưa là thân thương

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Việc quân, về tây nghẽn,
Chiến tranh, gió bụi nhiều.
Đất Thục, bậc già lão,
Vẫn ca khúc Thuấn Nghiêu.
Đất hiểm mà còn bị,
Huống chi nơi hoang liêu.
Nước Vu Giáp sớm đổ,
Sóng Cẩm Giang ngừng theo.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời