Thơ » Việt Nam » Trần » Đào Sư Tích
奮乾綱兮握樞,
煥明星兮燭幽。
仁恩湛兮旁浹,
品彙粲兮昭蘇。
德既茂於無私,
天乃錫乎應符。
此景星之異瑞,所以間代而僅見,有以彰隆平之休者乎!
觀其光輝絢爛,文采英華,
耿素魄之孤明,蘸銀河之澄碧。
接帝垣而昭晰,映黃道而的皪,
影動析木之濱,光浮附路之側。
周伯煌煌,揚彩而傍燭,
含譽煜煜,分輝而交射。
褰色正而芒寒,曰德星之格澤。
當堯之時,天下光宅,縢耀于天,晶熒烜赫,
何漢唐之末造,屢暝暝而昏蝕!
際休明之盛時,復昭著乎今日,
宜其為眾人之所快睹,而足驗天象之昭格。
惟符瑞之特異,兆宇內之隆平。
陰陽以和,天地以寧,
風雨以時,百穀用成。
狼煙息於三陲,仁風翔乎八紘。
禮樂昭著,法度修明。
人恬物熙,政簡刑清。
沸萬國之歐歌,溢四海之頌聲,
誠足以表我國之盛治,薦一人之嘉禎。
然嘗察之:
天人一理,感通不忒。
徵不于天而于人,符不在祥而在德。
故天之瑞舜,不在七政之齊,而在敕天之時機,
天之錫禹,不在洛書之呈,而在六府之孔須。
矧今:道闡羲軒,治軼唐虞,
峻德克明,群工承休。
騎箕尾者,媲商家之賢,
應昴宿者,陋漢世之儔。
則所以整頓乾坤,底定寰區,
致景星之效祥,實合牒而應圖。
莫非我聖皇參贊之妙用,有以開億萬載之宏謨。
謹拜手稽首而獻句曰:
瞻彼瑞彩,
燁揚明兮。
太平之符,
亦孔貞兮。
於維聖皇,
在德不在星兮!
Phấn càn cương hề ác xu,
Hoán minh tinh hề chúc u.
Nhân ân trạm hề bàng tiếp,
Phẩm vựng sán hề chiêu tô.
Đức ký mậu ư vô tư,
Thiên nãi tích hồ ứng phù.
Thử Cảnh Tinh chi dị thuỵ, sở dĩ gián đại nhi cẩn hiện, hữu dĩ chương long bình chi hưu giả hồ!
Quan kỳ quang huy huyến lạn, văn thái anh hoa,
Cảnh tố phách chi cô minh, trám Ngân Hà chi trừng bích.
Tiếp Đế Viên nhi chiêu tích, ánh hoàng đạo nhi đích lịch,
Ảnh động Tích Mộc chi tân, quang phù Phụ Lộ chi trắc.
Chu Bá hoàng hoàng, dương thái nhi bàng chúc,
Hàm Dự dục dục, phân huy nhi giao xạ.
Kiển sắc chính nhi mang hàn, viết Đức Tinh chi Cách Trạch.
Đương Nghiêu chi thời, thiên hạ quang trạch, đằng diệu vu thiên, tinh huỳnh huyễn hách,
Hà Hán, Đường chi mạt tạo, lũ minh minh nhi hôn thực!
Tế hưu minh chi thịnh thời, phục chiêu trứ hồ kim nhật,
Nghi kỳ vi chúng nhân chi sở khoái đổ, nhi túc nghiệm thiên tượng chi chiêu cách.
Duy phù thuỵ chi đặc dị, triệu vũ nội chi long bình.
Âm dương dĩ hoà, thiên địa dĩ ninh,
Phong vũ dĩ thời, bách cốc dụng thành.
Lang yên tức ư tam thuỳ, nhân phong tường hồ bát hoành.
Lễ nhạc chiêu trứ, pháp độ tu minh.
Nhân điềm vật hy, chính giản hình thanh.
Phất vạn quốc chi âu ca, dật tứ hải chi tụng thanh,
Thành túc dĩ biểu ngã quốc chi thịnh trị, tiến nhất nhân chi gia trinh.
Nhiên thường sát chi:
Thiên nhân nhất lý, cảm thông bất thắc.
Trưng bất vu thiên nhi vu nhân, phù bất tại tường nhi tại đức.
Cố thiên chi thuỵ Thuấn, bất tại thất chính chi tề, nhi tại sắc thiên chi thời cơ,
Thiên chi tích Vũ, bất tại Lạc thư chi trình, nhi tại lục phủ chi khổng tu.
Thẩn kim: đạo xiển Hy Hiên, trị dật Đường Ngu,
Tuấn đức khắc minh, quần công thừa hưu.
Kỵ Ky, Vĩ giả, thí Thương gia chi hiền,
Ứng Mão túc giả, lậu Hán thế chi trù.
Tắc sở dĩ chỉnh đốn càn khôn, để định hoàn khu,
Trí Cảnh Tinh chi hiệu tường, thực hợp điệp nhi ứng đồ.
Mạc phi ngã thánh hoàng tham tán chi diệu dụng, hữu dĩ khai ức vạn tải chi hoành mô,
Cẩn bái thủ khể thủ nhi hiến cú viết:
Chiêm bỉ thuỵ thái,
Diệp dương minh hề.
Thái bình chi phù,
Diệc khổng trinh hề.
Ư duy thánh hoàng,
Tại đức bất tại tinh hề!
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 04/09/2008 10:18
Nắm chốt chấn hưng việc trời,
Sao sáng rọi soi đêm tối.
Ân đức thấm khắp gần xa,
Muôn vậ tốt tươi chói lọi.
Vô tư đức đã dồi dào,
Trời bèn ứng ban điềm mới.
Vì thế điềm tốt lạ Cảnh Tinh, sở dĩ muôn đời mới xuất hiện, là để làm nổi bật phúc lớn thái bình đó chăng!
Kìa xem: Màu sắc huy hoàng, anh hoa bát ngát,
Rọi vừng trăng bạc trắng ngần, choán dòng sông Ngân xanh ngắt.
Cạnh ngôi Đế Toạ rỡ ràng, phản chiếu mặt trời vằng vặc,
Long lanh Tích Mộc bến trời, Phụ Lộ bên sao nổi sắc,
Sáng ngời Chu Bá, ánh rọi nghiêng nghiêng.
Hàm Dự chiếu soi, tia giao rừng rực,
Này sắc nghiêm trang mà bóng lạnh lùng, chính đó là sao Cách Trạch theo bên sao Đức.
Đời vua Đường Nghiêu, thiên hạ sáng ngời, bầu trời chói lọi, rực rỡ khắp nơi.
Sao đến cuối đời Hán Đường, luôn tối tăm mờ mịt đất trời!
Nay nhân gặp buổi thịnh thời, bầu trời lại rạng.
Người người xem thấy sướng vui, đủ nghiệm phép trời toả sáng.
Điềm tốt lạ lùng rất mực, làm cho thiên hạ thái bình.
Âm dương hoà hợp, đất trời yên minh,
Mưa hoà gió thuận, lúa tốt cây xanh.
Khói lửa ba bề yên tĩnh, gió nhân tám cõi bay quanh.
Lễ nhạc sáng tỏ, phép tắc phân minh.
Người yên vật thịnh, chính tốt hình thanh.
Âu ca muôn phương rộn tiếng, ngợi khen bốn bể lừng danh.
Thật đủ để nêu cao nước nhà thịnh trị, và dâng lên một đấng điềm lành.
Nhưng thường xét thấy rằng:
Trời người một lẽ, cảm thông rất mực.
Ứng nghiệm không ở trời mà ở người, tốt lành không tại điểm mà tại đức.
Cho nên: trời giúp vua Thuấn, không tại sánh bầy thất chính, mà tại thiên thời vâng kính.
Trời ban cho vua Vũ, không tại trình bày Lạc thư, mà tại sửa sang sáu phủ.
Huống gì hiện nay: đạo mở Hiên Hy, chính trị vượt hơn Thuấn Nghiêu,
Đức tốt sáng ngời, trăm quan vâng theo.
Cưỡi Ky, Vĩ, sánh khách Thương gia,
Ứng sao Mão, khinh người Hán triều.
Thế thì, chỉnh đốn cõi bờ, định yên đất nuớc,
Để Cảnh Tinh đưa lại điềm lành, thực hợp với Đồ Thư đời trước.
Không điều gì mà không nhờ thánh hoàng ta khéo vận dụng tài năng để mở rộng cho muôn đời bằng mưu lược.
Thần kính cẩn chấp tay cúi đầu mà dâng lời rằng:
Kìa xem điều báu,
Rực rỡ trời cao.
Điềm của thái bình,
Phúc biết dường bao.
Với thánh hoàng ta,
Tại đức không tại sao.