Quá Tương Âm huyện đề Thanh Thảo hồ

Mạn mang Tiêu khổng hựu Tương khâm
Thiên nhất sinh lai chiếu cổ câm
Tần lục âu hồi dao thảo luyện
Hà lư triều lạc thích thương châm
Ba ngư hương thấu phong tiền địch
Sở khách thu sinh nguyệt hạ tâm
Tình ý ngạc lâu khan bất tận
Hy văn nhất ký ái ưu thâm

 

Dịch nghĩa

Đã dòng Tiêu mênh mông chặn đầu lại sông Tương như vạt áo vắt ngang
Từ khi sinh ra xưa nay đều có bầu trời xanh soi xuống
Đàn chim âu trở về trên bãi rau tần rau ngổ làm lay động cả tấm lụa cỏ xanh
Khi nước triều rút xuống những lùm sậy lá tua tủa như mũi giáo nhọn đâm lên trời thẳm
Gió đưa mùi thơm của cá hồ Ba Khưu đến tận khúc sáo đang cất lên
Khiến cho người khách nước Sở dưới trăng chạnh lòng thu nhớ quê nhà
Bầu trười quang tạnh, tựa lầu nhìn xa bất tận
Mong sao thơ văn một khi viết ra đều mang nặng lòng ưu ái sâu xa


Hồ Thanh Thảo còn goi là hồ Ba Khưu.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đinh Nho Hồng

Tiêu chặn trước, Tương vắt ngang
Ngàn năm soi bóng mênh mang bầu trời
Chim về tần, ngổ gió lay
Khi triều rút, sậy như cây giáo dài
Ba Khưu cá quý dậy mùi
Dưới trăng thu lạnh chạnh người khách qua
Nhìn trời bất tận nhớ nhà
Thơ văn lắng đọng sâu xa mặn nồng

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Đầu chặn dòng Tiêu Tương vắt ngang,
Từ xưa trời biếc soi sông ngàn.
Âu về lay động rau tần ngổ,
Triều xuống sậy đâm tựa giáo dàn.
Thơm dậy Ba Khưu mùi cá quý,
Trăng thu khách Sở nhớ quê nhà.
Tựa lầu trời tạnh nhìn vô tận,
Lòng nặng mong thơ ưu ái xa.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời