西










穿西

















使









































 

Thu dạ lữ hoài ngâm

Thu dạ tĩnh thiên quang ẩn ước
Cách sơ liêm đạm chước kim lôi
Thiên thời nhân sự tương thôi
Phù sinh nhược mộng kỷ hồi vi hoan

Nhân đối cảnh hoa gian nguyệt chiếu
Cảnh liêu nhân thụ tiêu phong xuy
Giá ban liệu thiểu nhân tri
Nhàn lai phong nguyệt dữ thuỳ vi thu

Thi tứ tuyệt di du nhã ái
Tửu tam bôi tiêu sái ly hoài
Đăng tiền độc đối thư trai
Thương tâm khách địa hữu hoài cổ nhân

Hương thuỷ ngoại hốt văn ngư vận
Tòng hà lai trạo tiến giang biên
Bồi hồi nguyệt dạ sương thiên
Hàn sơn ám nhận khách thuyền cánh phi

Khúc giang thuỷ hà thì Đại Đỗ
Nhất cô chu hệ cố viên tâm
Thời lưu bát thủ thi ngâm
Linh nhân lữ tứ chuyển thâm hương tình

Tích ngã vãng thanh thanh liễu nhứ
Lưỡng tam thanh sơ ngữ hoàng oanh
Nhi kim cúc dĩ hàm anh
Liễu âm đình ngoại hàn minh thu thuyền

Tích ngã khứ phiên phiên đào kiểm
Lưỡng tam chi sơ chiếm đông phong
Nhi kim lan dĩ thành tùng
Đào yêu hiên ngoại lạc tùng hàn sương

Hồ vi hồ thê lương khách xá
Nhật ưu du kỷ cá quan đồng
An năng dạ dạ thư phòng
Ba tiêu khấp lộ côn trùng minh thu

Hồ vi hồ di du lữ quán
Tuế thuân tuần dĩ bán sương yên
An năng mộ mộ thư hiên
Phong dao đình trúc nguyệt huyền ốc lương

Bất thị tố hà lang đầu bút
Tương trung can vị quốc tòng quân
Thử thân không mạo phong trần
Toạ trung hư thị tẩm thì đồ văn

Bất thị tố hà nhân phủng hịch
Tương hiếu tâm ly thích tòng quan
Tha hương hà sự bàn hoàn
Bạch vân phi xứ mẫu đơn khai thì

Kim nhật tự hải tân viễn cố
Nhất khinh phàm trực độ quy lăng
Hương hồn phí phí như tăng
Trục phàm hốt dĩ phá tằng tằng ba

Minh nhật tự sơn gia viễn diểu
Phiến cô vân đới hiểu phù không
Hương tâm niểu niểu như bồng
Tuỳ vân hốt dĩ quá trùng trùng san

Hà nhật thị hương quan nhạn tín
Du du nan tả tận tâm tình
Dạ văn Diệu Đế chung thanh
Hải môn cổ hưởng ngự thành pháo thôi

Giang khúc khúc trường hồi khúc khúc
Cảnh du du dạ phục du du
Tiêu điều quán lữ đình thu
Lân gia thung chử giang đầu trạo thanh

Ta khách địa hu oanh tâm sự
Thán khuê nhân tình tự khả liên
Canh thâm đăng diệt án tiền
Hàm tình yểm phiến không huyền nguyệt minh

Cô chẩm lý tam canh ngụ mị
Phiến u hoài thuỳ thị vi lân
Tình đầu dạ bán vô nhân
Thuỵ lai báo điệp tỉnh thần minh kê

Hữu thì hoặc hương khuê tịch chiếu
Hạ đường lai dục tháo hoa lâu
Hốt kinh yến tập nê sào
Loan tu chiếu kính phụng sầu lãn sơ

Hữu thì hoặc chức cơ dạ tĩnh
Hô đồng lai sơ chỉnh đăng minh
Hốt văn nhạn độ giang thanh
Cơ dung túc đạp thoa đình thủ phao

Khả lân dạ phần cao đạt đán
Dạ trầm trầm bất kiến giai âm
Trịch thoa vọng vọng đình âm
Sương hàn tất suất thính ngâm thanh sầu

Vọng bất kiến du du ngã độc
Cố khuê môn tải phục ngôn hoàn
Thính gia kê xướng tây lan
Hàm tình ỷ kỷ khiêu tàn cô đăng

Khả lân nhật đăng đình tự tảo
Nhật tà tà bất đáo hồi thư
Khiết y bộ bộ khang cù
Thuyền minh dương liễu đới sầu mi khan

Vọng bất kiến phiên phiên ngã độc
Cố cầm hiên cưỡng dục vi tình
Hốt chiêm điệp hý lan bình
Hàm thê xuyên cược phục hành tây viên

Kim tất vị thu thiên tĩnh hảo
Ngã lương nhân tương đáo quy kỳ
Hoàng tri thế lộ nghiêu hề
Quan san thiên lý vị kỳ hạt lai

Kim tất vị ngã ly vĩnh cửu
Tự Trường An hoặc bão khâm trù
Phong tình quán tự phong lưu
Phồn hoa thẩn hựu hoàng châu đế thành

Cẩu phi hữu nhân tình giả dã
Hồ nhi xuân nhi hạ nhi thâu (thu)
Do lai tử các hồng lâu
Anh hùng bất trụ trượng phu nan trì

Như thử giả thuỳ tri chi giả
Yên ba trung sử ngã tâm sầu
Ngang tàng khởi thiếu niên du
Phong lưu cựu thái giang hồ cố gia

Lữ cảnh mỗi tòng nga lý thống
Hương hồn không hướng mộng trung du
Giang sơn khách diệc tri hồ
Tình trung cánh thiết lộ đồ gian nan

Tuy viết dĩ tảo tần phụ sự
Nội tề gia thượng tự tổ tiên
Giản mao hoàng thuỷ vi kiền
An tri chủ quỹ năng hiền phụ nhân

Khả tri giả thập phần gia ấu
Nhất môn trung cộng bảo vô nguy
Biệt thì chính tại hài nhi
Niên lai tưởng dĩ phát thuỳ nha sinh

Khả ái giả kỳ huynh chi tử
Niên thập tam thập tứ trung lai
Ngô huynh diệc viết hạnh tai
Để kim vị giác thuỳ khai học đường

Khả tư giả đồng song nhị khế
Chi lan hương tế tế do văn
Mã bôi tự ấp khinh trần
Vị Thành thử hậu cố nhân diệc từ

Bất tri hậu Bắc kỳ khởi phỉ
Nhị ngô huynh dĩ vị hồi thần
Ta tai đồng bệnh tương lân
Nhất Tiêu tương nhất hướng Tần nhất phương

Tương hà nhật cánh tương đối ngữ
Tự khuê tình hựu tự khách trung
Nhi kim thu nguyệt thu phong
Thu ngâm thu ẩm tình trung giả thuỳ

Đối ly cảnh lệ thuỳ song nhãn
Cố hương quan lộ hạn trùng san
Tửu tàn độc ỷ lan can
Giác lai nhãn khán dạ hoàn thê lương


Sách Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên và Thu dạ lữ hoài ngâm của Georges Cordier (Nhà in Kim Đức Giang, Hà Nội, 1925) ghi tác giả bài này là Ngô Điền, người Nam Định, thi đậu Hoàng giáp đời vua Tự Đức, trước làm quan trong nội các, sau thuyện đi nhậm ở một tỉnh xa xôi, lâu không được về quê nên có viết khúc này để than thở niềm tư gia ở nơi đất khách.

Sách Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm của Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn (Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản, 2008) ghi tác giả là Đinh Nhật Thận. Bản này dựa trên bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng lại cho ông Nguyễn Tài Chất, và đã được đối chiếu với các bản của Trường Thịnh Đường (in mộc bản năm 1902) và bản Nguyễn Văn Đề công bố trong cuốn Trong 99 chóp núi (do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4-7-1941) tại Huế. Theo đó, Đinh Nhật Thận làm bài này trong thời gian bị triều đình bắt giữ cho rằng ông liên luỵ với khởi nghĩa của Cao Bá Quát tỏ nỗi lòng nhớ quê nhà.


[Thông tin 4 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đinh Nhật Thận

Bài dịch có 3 dị bản, hãy chọn bản muốn xem:

1 Bản in trong Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua “Thu dạ lữ hoài ngâm” (Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn, Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản, 2008)

2 Bản in trong Văn đàn bảo giám (Trần Trung Viên, NXB Văn học, 2004)

3 Thu dạ lữ hoài ngâm (Georges Cordier, Nhà in Kim Đức Giang, Hà Nội, 1925)

Bản in trong Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua “Thu dạ lữ hoài ngâm” (Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn, Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản, 2008)
Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng,
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi.
“Thiên thời nhân sự tương thôi”,
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta?


Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ,
Cảnh trêu người, ngọn gió rung cây.
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu.

Thơ nhã ái bốn câu buông vận,
Rượu ly hoài ba chén làm khuây.
Trước đèn trong chốn thư trai,
Chạnh lòng đất khách, nhớ người đời xưa.

Ngoài Hương thuỷ tiếng ngư văng vẳng,
Thuyền từ đâu chèo thẳng biên giang?
Lờ mờ đêm nguyệt trời sương,
Thuyền ai tưởng khách non Hàn, lại không!

Khúc ngư thuỷ nhớ ông Đại Đỗ,
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ.
Hứng thu để tám bài thơ,
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng.

Xưa ta đi liễu đang thanh tế,
Chim hoàng anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu,
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve.

Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm,
Gió đông phong mới điểm ba hàng.
Bằng nay lan đã chồi sương,
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu.

Làm chi vậy buồn rầu đất khách,
Ngày quán đồng mượn thích làm khuây.
Có đêm nương bóng hồi tây,
Tiếng sương khóc , hơi bay gọi trùng.

Làm chi vậy lạnh lùng quán lữ,
Năm, sương yên hết nửa đi rồi.
đêm ngồi nhẫn thư trai,
Gió lay bên trúc, nguyệt cài trên lương.

Nào có phải như chàng ném bút,
Vì vua mà đồng mác cho cam.
Luống đem thân thế cát lầm,
Thấy ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai.

Nào có phải như ai vâng hịch,
Vì thân mà xa cách cho xong.
Bỗng không cách địa binh bồng,
Trông mây lại nhớ, xem bông lại buồn.

Ngày nay đứng trông miền bể rộng,
Một cánh buồm gióng thẳng về cồn.
Lòng quê đâu đã cuồn cuồn,
Phút theo buồm vượt máy ngàn sóng khơi.

Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã bồng bồng,
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa.

Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu Đế cho rền,
Trống vang cửa bể, súng rên thành vàng.

Sông quạnh quẽ ruột càng quằn quại,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.

Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Gẫm tình che quạt luống chờ bóng trăng.

Năm canh những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng không người,
Ngủ thời bướm báo, dậy thời gà kêu.

Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước xuống thềm lại muốn lên lầu.
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải, gương rầu mặt soi.

Hoặc có lúc đưa thoi đêm tối,
Gọi con vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp, thoi ngừng tay đưa.

Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè,
Tai nghe tiếng dế rè rè khóc sương.

Trông chẳng thấy, chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn.

Thương thay có ngày nhìn sáu khắc,
Ngày gần tàn chẳng thấy thư sang.
Xuống thềm ra đứng bên đàng,
Mày sầu liễu hàng hàng khóc ve.

Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên tay gợi ngón đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn tình mang dép ra vườn hái hoa.

Rày hẳn bảo giời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường thế nhiêu khê,
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng.

Rày hẳn nói mình chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu vốn đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Tràng An.

Nếu chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru,
Anh hùng lại với trượng phu ai từ?

Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ lối xưa.

Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương quan trước mắt mơ màng.
Non sông khách có biết chăng,
Vẫn tình thì nhớ nhưng đường thì khơi.


Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.

Duy cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Trong gia đình đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.

Và thằng cháu giời thương cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay biết đã học hành cùng ai.

Bạn đèn sách một hai tri thức,
Mùi lan chi sực nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị Thành lúc ấy rồi mà Dương Quan.

Sau chẳng biết ngoài miền bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi hương?
Thương ôi đồng bệnh cùng thương,
Một Tần lại một Tiêu Tương một giời.

Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.

Sầu ly biệt tuôn đầy hai mắt,
Bóng hương quan xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi dựa lan can,
Chiêm bao tỉnh giấc đêm tàn về thu.


[Thông tin 3 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
25.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Đề

Đêm thu lặng trời thu trong suốt,
Cách rèm thưa, lặng rót chén vàng.
Cơ trời, việc thế đa đoan,
Kiếp phù mấy thuở bày tuồng làm vui.

Người đối cảnh hoa cười bóng nguyệt,
Cảnh trêu người, gió nguýt ngọc cây.
Dường này dễ mấy ai hay?
Cùng ai với gió trăng này làm thân?

Thơ khiển hứng hạ vần nhã ái,
Rượu tiêu sầu lưng túi ly hoài.
Một đèn riêng một thư trai,
Nhớ thân muôn dặm thương người nghìn thu.

Ngoài bến nọ, tiếng ngư vang dội,
Thuyền đậu chèo dọc mãi sông Hương.
Mơ màng đêm nguyệt trời sương,
Non Hàn tưởng khách thơ Đường là ai!

Trên sông Khúc nào hồn Tử Mỹ,
Chiếc bè trôi, chạnh ý ly hương?
Cảm thu truyền lại tám chương,
Khéo xui lòng khách dễ vương tình lòng?

Khi ta đi liễu đang xanh tốt,
Một vài câu vừa hót chim oanh.
Mà nay cúc nở vang cành,
Liễu kia, ve khóc buồn tanh ngõ ngoài.

Xưa ta đi, đào cười nhí nhoẻn,
Một đôi cành vừa bén gió đông,
Mà nay lan rợp như rừng,
Đào theo sương rụng lung tung phía ngoài.

Làm chi vậy lẻ loi quán trọ,
Ngày ba thằng măng sữa nghêu ngao.
Đêm đêm án sách gục vào,
Lá thân sương nặng, dế kêu thu buồn.

Làm chi vậy gầy mòn điếm lữ?
Chốc nửa năm sương gió lân la,
Đêm đêm hiên vắng nhìn ra,
Gió lay ngọn trúc, trăng sa mái hồi.

Nào có phải như ai vì nước,
Vứt bút mà đòng mác cho cam.
Khi không rước lấy cát lầm,
Hổ ngồi giương mắt, thẹn nằm nghiêng tai!

Nào có phải như ai vì hiếu,
Vâng hịch mà bôn tẩu chẳng nài!
Việc gì lần lữa quê người?
Mây che núi cũ, hoa cười thôn cô

Rày đứng ngóng trên bờ trên biển
Lá buồm ai về bến thẳng giong.
Lòng quê sôi nổi như nung,
Phút theo buồm vượt mấy trùng phong ba.

Mai đứng ngóng nhà kia trên núi,
Làn mây cô trôi nổi bềnh bồng.
Lòng quê rối tựa bòng bong,
Phút theo mây kéo mấy trùng quan san.

Phương nào tá tin nhàn núi cũ?
Bút mực đâu tả đủ niềm đơn?
Bên chùa Diệu Đế chuông dồn,
Trên thành súng nổ, dưới đồn trống vang.

Sông quằn quặn, ruột càng quằn quặn.
Cảnh rầu rầu, dạ vẫn rầu rầu.
Lạnh lùng đất khách trời thâu,
Kìa! ai giã gạo? Ờ! đâu khua chèo?

Ngoài nghìn dặm rối meo tâm sự,
Chốn phòng khuê vò võ thương ai!
Canh khuya che quạt lặng ngồi,
Mặc đèn lu ngọn, kệ trời sáng trăng!

Trên gối chiếc đêm tràng tráo trở,
Mảnh tình riêng than thở cùng ai?
Đã khuya trông chửa thấy người,
Ngủ mơ màng bướm, dậy oi óc gà.

Hoặc có lúc trước nhà bóng đổ,
Bước xuống thềm lại trở lên lên lầu.
Phút trông én ngậm bùn đâu.
Phượng buồn bã lược, loan rầu rĩ gương.

Hoặc có lúc trong buồng đêm vắng,
Gọi khêu đèn, hòng gắng dệt khuya,
Bỗng nghe nhạn vượt sông kia,
Ác buông trôi máy, én lìa ngưng thoi.

Thương thay có đêm ngồi suốt sáng,
Đợi cả đêm, thư chẳng thấy nao!
Vứt thoi ra ngóng trước lầu,
Dế than sương lạnh rót sầu vào tai!

Chẳng thấy ai, riêng càng tức tối,
Đành ôm lòng trở lại buồng thêu.
Nhà bên gà đã gáy vèo,
Nghĩ đâu dựa ghế còn khêu hao đèn.

Thương thay cứ ngày quen dậy sớm,
Đợi tối ngày tin vẫn vắng đâu.
Day tà áo, dạo quanh lầu,
Liễu kia ve khóc rủ sầu ngang mi.

Chả thấy gì, lại còn lủi thủi,
Gượng ôm cầm dạo mấy đường tơ,
Bình lan bướm vội theo đùa,
Bực thôi xỏ dép bỏ ra thăm vườn.

Giờ hẳn nói: “Trăng tròn lại tỏ”,
Để đến ngày “Gương vỡ lại liền”!
Biết đâu đường thế trần phiền,
Người đi chưa dễ biết phen nào về!

Thôi lại bảo mình e ở mãi,
E kinh đô đã phải lòng ai!
Làng chơi quên thói ăn chơi.
Đất phồn hoa ấy lại trời Phú Xuân!

Chẳng vì tiếc xuân nên nán ná,
Sao xuân rồi, lại hạ, rồi thu?
Mấy nơi gác tía rèm chu,
Anh hùng hào kiệt chưa từ lọ ai?

Như thế ấy ai người biết với?
Trong yên ba riêng tủi lòng này.
Phải chăng trai trẻ những ngày,
Rằng ưa đài các? Rằng hay giang hồ?

Câu lữ cảnh mượn ru ly hận,
Hồn hương quan vơ vẩn đêm trường.
Ai mà nghĩ đến mà thương.
Vì ai thêm xót nỗi đường cam gay!

Nghề nội trợ đã hay rằng thế,
Việc tổ tiên thì để trên đầu.
Rau khe, nước suối mặc dầu,
Một tay trăm việc chắc đâu lo tròn?

Duy biết chắc đàn con mạnh giỏi,
Lòng chẳng nghe ái ngại điều chi!
Ngày đi trẻ dại biết gì,
Tóc răng rày đã ra bề đã khôn!

Dễ thương nhỉ thằng con anh trưởng!
Tuổi mười ba, mười bốn chi rồi!
Anh mình hẳn lấy làm vui,
Năm này cháu đã theo ai sách đèn.

Nhớ đèn sách khôn quên hai bạn,
Mùi chi lan thoang thoảng còn hoài,
Chén đưa nào lúc khuyên nài,
Vị thành lúc ấy là rồi chia tay.

Sau đất Bắc đường đầy binh lửa,
Hai anh ta về ở bề nào?
Bịnh chung, chung mối thương đau,
Thương ôi kẻ đấy người đâu một trời?

Bao giờ lại cùng ngồi chuyện vãn,
Chuyện gần xa lòng gạn hỏi lòng?
Mà nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu, ai chung với nào?

Trông đất khách, lệ trào đôi mắt,
Ngóng quê nhà, đường mắc nghìn non.
Rượu rồi gục xuống câu lơn,
Chiêm bao mở mắt, đêm còn hoàn đêm!


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời