秦州雜詩其二

秦州城北寺,
傳是隗囂宮。
苔蘚山門古,
丹青野殿空。
月明垂葉露,
雲逐渡溪風。
清渭無情極,
愁時獨向東。

 

Tần Châu tạp thi kỳ 02

Tần Châu thành bắc tự,
Truyền thị Ngỗi Hiêu cung.
Đài tiển sơn môn cổ,
Đan thanh dã điện không.
Nguyệt minh thuỳ diệp lộ,
Vân trục độ khê phong.
Thanh Vị vô tình cực,
Sầu thì độc hướng đông.

 

Dịch nghĩa

Ngôi chùa phía bắc thành Tần Châu,
Tương truyền là cung vua Ngỗi Hiêu.
Rêu trên cửa núi cũ kỹ,
Nét vẽ ở điện hoang trơ trọi.
Trăng soi sáng hạt móc đầu lá rũ,
Mây đưa gió thổi qua khe.
Sông Vị trong quá thờ ơ,
Buồn bã chỉ chảy về hướng đông.


(Năm 759)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (8 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Tần Châu chùa cõi bắc
Ấy chốn Ngỗi Hiêu xưa
Cửa núi làn rêu cũ
Đền hoang nét vẽ thưa
Trăng soi sương lá giọt
Mây giục gió khe đưa
Thanh Vị thờ ơ thế
Về đông buồn quạnh chưa!


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của mailang

Tần Châu, chùa phía bắc,
Xưa điện Ngỗi Hiêu mà.
Cửa núi dày rêu cũ,
Đền hoang sắc nhạt nhoà.
Trăng soi sương đọng lá,
Khe hút gió mây qua.
Thanh Vị vô tình lắm,
Về đông mãi xót xa.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Anh Nguyên

Ngôi chùa phía bắc Tần Châu,
Truyền là cung lúc ban đầu Ngỗi Hiêu.
Cửa chùa cũ kỹ đầy rêu,
Điện hoang, nét vẽ tiêu điều còn trơ.
Trăng soi hạt móc hững hờ,
Mây theo gió cuốn qua bờ suối sâu.
Thờ ơ, sông Vị một mầu,
Hướng đông chảy miết, buồn rầu ai hay...

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Chùa Tần Châu, bắc thành,
Cung Ngỗi Hiêu, cảnh xinh.
Cửa núi cũ, rêu mọc,
Đền hoang mầu đỏ xanh.
Lá sương trĩu trăng sáng,
Gió khe, mây bồng bềnh.
Thanh Vị vô tình quá,
Xuôi đông lúc buồn tình.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Chùa Tần Châu bắc phương nhắm lối
Tương truyền xưa là Ngỗi Hiêu cung
Cửa son cũ kỹ rêu phong
Điện hoang nét vẽ đỏ xanh đã mờ
Trăng sáng chiếu sương sa trên lá
Gió thổi mây vượt quá sơn khê
Vô tình sông Vị quả là
Ta buồn mà cứ lững lờ xuôi đông.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Tế Xương

Nền cung Tây Bá luống thờ ơ
Một mái chùa hoang cỏ phất phơ
Rêu bụi vẻ mờ hang đá cớm
Son vàng màu lợt cửa đền trơ
Trăng khuya thấp thoáng sương cành víu
Mây sớm tơi bời gió suối đưa
Dòng Vị hững hờ chi lắm tá
Bến Đông để chút mấy vần thơ


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Ngôi chùa phía bắc thành Tần Châu,
Truyền tụng là cung vua Ngỗi Hiêu.
Cửa núi trên rêu trông cũ kỹ,
Điện hoang nét vẽ thấy tiêu điều.
Trăng soi sáng hạt sương đầu lá,
Gió thổi mây đưa qua suối sâu.
Sông Vị vô tình trong trẻo quá,
Chảy về đông hướng với muôn sầu.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Ngôi chùa phía bắc Tần Châu,
Ngỗi Hiêu cung điện từ lâu lưu truyền.
Tỏ mờ cảnh sắc hoang lương,
Rêu xanh núi cũ mọc lan cả vùng.
Giọt sương trăng dọi đầu cành,
Làn mây theo gió chùng chình qua khe.
Cớ chi sông Vị hững hờ?
Lạnh lùng một hướng lững lờ về đông.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời