將曉其二

軍吏回官燭,
舟人自楚歌。
寒沙蒙薄霧,
落月去清波。
壯惜身名晚,
衰慚應接多。
歸朝日簪笏,
筋力定如何。

 

Tương hiểu kỳ 2

Quân lại hồi quan chúc,
Chu nhân tự Sở ca.
Hàn sa mông bạc vụ,
Lạc nguyệt khứ thanh ba.
Tráng tích thân danh vãn,
Suy tàm ứng tiếp đa.
Qui triều nhật trâm hốt,
Cân lực định như hà.

 

Dịch nghĩa

Viên đội mang ngọn đuốc của nhà nước trở lại,
Nhà thuyền từ vùng Sở ca hát.
Bãi cát lạnh có làn sương mỏng phủ,
Trăng tà rời lớp sóng trong.
Tuổi trẻ hối tiếc rằng đường công danh chậm trễ,
Ở tuổi già yếu ngượng vì tiếp xúc nhiều.
Nhớ lại ngày trước trâm với hốt mỗi khi tan chầu,
Sức lực khiến ra như thế đó.


(Năm 765)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Viên đội đuốc quan lại,
Bác lại từ Sở ca.
Sương mỏng phủ bãi lạnh,
Sóng trong lướt trăng tà.
Công danh chậm: than trẻ,
Tiếp xúc nhiều, ngại già.
Trâm hốt buổi chầu bãi,
Sức lực định vậy mà.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Lính mang ngọn đuốc quan về lại,
Vùng Sở nhà thuyền lại hát ca.
Bãi cát làn sương hàn mỏng phủ,
Sóng trong rời lớp dưới trăng tà.
Công danh tuổi trẻ đường bê trễ,
Yếu ngượng tiếp giao vì tuổi già.
Nhớ lại tan chầu trâm với hốt,
Khiến ra như thế sức mòn qua.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phan Ngọc

Đuốc đưa quan trở về nhà,
Dân chèo Sở cất tiếng ca một mình.
Bãi cát lạnh, mù mông mênh,
Trăng tà đã lặn, sông xanh chập chờn.
Thời trẻ tiếc danh thân đều muộn,
Già, thẹn mình tiếp đón đã nhiều.
Ngày mang trâm hốt về triều,
Gân tàc sức yếu, sao theo được giờ!


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Đuốc đưa quan lệ mang trở lại
Điệu Sở ca phu lái thuyền hò
Bãi sa bao phủ mây mù
Trăng tà rời lớp sóng xô lặn dần
Hồi trẻ tiếc công danh chậm trễ
Nay yếu già ngượng đã tiếp nhiều
Nhớ xưa trâm hốt tan triều
Nay như thế đó, sức tiêu gân trùng.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời