將曉其一

石城除擊柝,
鐵鎖欲開關。
鼓角悲荒塞,
星河落曉山。
巴人常小梗,
蜀使動無還。
垂老孤帆色,
飄飄犯百蠻。

 

Tương hiểu kỳ 1

Thạch thành trừ kích thác,
Thiết toả dục khai quan.
Cổ giác bi hoang tái,
Tinh hà lạc hiểu sơn.
Ba nhân thường tiểu ngạnh,
Thục sứ động vô hoàn.
Thuỳ lão cô phàm sắc,
Phiêu phiêu phạm bách man.

 

Dịch nghĩa

Tiếng mõ vừa ngưng nơi thành xây bằng đá,
Khoá sắt mở và cửa tung ra.
Nơi vùng biên giới hoang vu tiếng trống, ốc ai oán,
Sao trời lặn sau núi ban mai.
Người xứ Ba thường ương bướng,
Sứ vua cử vào đất Thục có đi mà không trở lại.
Gần già, quen với mầu buồm lẻ,
Cứ phới phới xông vào vùng các bộ tộc.


(Năm 765)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Thạch-thành mõ vừa mới ngưng,
Khoá sắt cũng mở cửa tung ra rồi.
Biên hoang, trống ốc bi ai,
Tinh tú mới sáng đã rơi sau đồi.
Dân Ba tính thích trêu ngươi,
Sứ tới vùng Thục không người quay lui.
Già rồi buồm lẻ còn trôi,
Lênh đênh cứ dạt qua nơi trăm Mường.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Tiếng mõ vừa ngưng nơi thạch thành,
Cửa tung khoá sắt mở ra nhanh.
Hoang vu kèn trống biên cương oán,
Sau núi ban mai sao lặn quanh.
Người xứ Ba thường ương bướng nhác,
Sứ vào đất Thục không về thành.
Gần già quen với mầu buồm lẻ,
Phới phới xông vào bộ tộc nhanh.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phan Ngọc

Thành đá tiếng mõ dứt,
Khoá sắt mở cửa thành.
Tù và buồn ải vắng,
Sao lặn trên núi xanh.
Người Ba thường bướng loạn,
Sứ Thục khó về nhanh.
Như buồm côi già đến,
Giữa Man Di điêu linh.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Tiếng mõ vừa ngưng nơi thành đá
Hai cửa thành mở khoá toang ra
Trống kèn ai oán ải xa
Núi ban mai hiện Ngân hà lặn sau
Người xứ Ba thường cau và bướng
Sứ Thục vào nhưng hiếm trở ra
Lão câu buồm cũ chơ vơ
Vẫn thường lui tới man di xóm làng.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời