宿青溪驛奉懷張員外十五兄之緒

漾舟千山內,
日入泊枉渚。
我生本飄飄,
今復在何許。
石根青楓林,
猿鳥聚儔侶。
月明遊子靜,
畏虎不得語。
中夜懷友朋,
乾坤此深阻。
浩蕩前後間,
佳期付荊楚。

 

Túc Thanh Khê dịch phụng hoài Trương viên ngoại thập ngũ huynh Chi Tự

Dạng chu thiên sơn nội,
Nhật nhập bạc uổng chử.
Ngã sinh bản phiêu phiêu,
Kim phục tại hà hứa.
Thạch căn thanh phong lâm,
Viên điểu tụ trù lữ.
Nguyệt minh du tử tĩnh,
Uý hổ bất đắc ngữ.
Trung dạ hoài hữu bằng,
Càn khôn thử thâm trở.
Hạo đãng tiền hậu gian,
Giai kỳ phó Kinh Sở.

 

Dịch nghĩa

Thuyền tròng trành ở giữa vùng ngàn núi,
Chiều xuống ghé đậu bến vũng.
Đời ta vốn lao đao,
Giờ đến nơi nào đây?
Rừng phong xanh chen kẽ đá,
Vượn, chim kết cả bày.
Trăng sáng khách âm thầm,
Sợ hổ nên chẳng dám lên tiếng.
Nửa đêm nhớ bạn bè,
Đất trời cách xa là thế!
Khoảng trước sau mênh mông,
Mong gặp nơi Kinh Châu thuộc đất Sở.


(Năm 765)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nhượng Tống

Buông thuyền giữa nghìn núi
Đậu bến trời vừa tối
Chốn này là chốn nào?
Thân ta vốn trôi nổi
Chen đá, rừng phong xanh
Chim vượn đua kêu gọi
Trăng sáng khách âm thầm
Sợ hùm không dám nói
Nửa đêm nhớ bạn hiền
Cách trở khôn thăm hỏi
Trước sau sóng mông mênh
Sang Sở này đây lối


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Thuyền nhô giữa ngàn núi,
Trời lặn neo bãi cây.
Đời ta vốn phiêu bạt,
Chốn nào giờ đến đây?
Rừng phong chen kẽ đá,
Chim vượn tụ cả bày.
Sợ hổ chẳng dám nói,
Trăng sáng khách ngồi ngây.
Nửa đêm nhớ bè bạn,
Đất trời xa cách thay.
Trước sau mênh mông rộng,
Kinh, Sở hẹn có ngày.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời