Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Phiêu bạc tây nam (760-770)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 24/04/2015 22:42
昔罷河西尉,
初興薊北師。
不才名位晚,
敢恨省郎遲。
扈聖崆峒日,
端居灩澦時。
萍流仍汲引,
樗散尚恩慈。
遂阻雲臺宿,
常懷湛露詩。
翠華森遠矣,
白首颯淒其。
拙被林泉滯,
生逢酒賦欺。
文園終寂寞,
漢閣自磷緇。
病隔君臣議,
慚紆德澤私。
揚鑣驚主辱,
拔劍撥年衰。
社稷經綸地,
風雲際會期。
血流紛在眼,
涕灑亂交頤。
四瀆樓船泛,
中原鼓角悲。
賊壕連白翟,
戰瓦落丹墀。
先帝嚴靈寢,
宗臣切受遺。
恒山猶突騎,
遼海競張旗。
田父嗟膠漆,
行人避蒺藜。
總戎存大體,
降將飾卑詞。
楚貢何年絕,
堯封舊俗疑。
長籲翻北寇,
一望卷西夷。
不必陪玄圃,
超然待具茨。
休兵鑄農器,
講殿闢書帷。
廟算高難測,
天憂實在茲。
形容真潦倒,
答效莫支持。
使者分王命,
群公各典司。
恐乖均賦斂,
不似問瘡痍。
萬里煩供給,
孤城最怨思。
綠林寧小患,
雲夢欲難追。
即事須嘗膽,
蒼生可察眉。
議堂猶集鳳,
正觀是元龜。
處處喧飛檄,
家家急競錐。
蕭車安不定,
蜀使下何之。
釣瀨疏墳籍,
耕岩進弈棋。
地蒸餘破扇,
冬暖更纖絺。
豺遘哀登楚,
麟傷泣象尼。
衣冠迷適越,
藻繪憶游睢。
賞月延秋桂,
傾陽逐露葵。
大庭終反樸,
京觀且僵屍。
高枕虛眠晝,
哀歌欲和誰。
南宮載勳業,
凡百慎交綏。
Tích bãi Hà Tây uý,
Sơ hưng Kế Bắc sư.
Bất tài danh vị vãn,
Cảm hận tỉnh lang trì.
Hỗ thánh Không Đồng nhật,
Đoan cư Diễm Dự thì.
Bình lưu nhưng cấp dẫn,
Xư tán thượng ân tư.
Toại trở Vân đài túc,
Thường hoài Trạm lộ thi.
Thuý hoa sâm viễn hĩ,
Bạch thủ táp thê kỳ.
Chuyết bị lâm tuyền trệ,
Sinh phùng tửu phú khi.
Văn Viên chung tịch mịch,
Hán các tự lân truy.
Bệnh cách quân thần nghị,
Tàm hu đức trạch tư.
Dương tiêu kinh chủ nhục,
Bạt kiếm bát niên suy.
Xã tắc kinh luân địa,
Phong vân tế hội kỳ.
Huyết lưu phân tại nhãn,
Thế sái loạn giao di.
Tứ độc lâu thuyền phiếm,
Trung nguyên cổ giác bi.
Tặc hào liên Bạch Địch,
Chiến ngoã lạc đan trì.
Tiên đế nghiêm linh tẩm,
Tông thần thiết thụ di.
Hằng sơn do đột kỵ,
Liêu Hải cạnh trương kỳ.
Điền phụ ta giao tất,
Hành nhân tị tật lê.
Tổng nhung tồn đại thể,
Giáng tướng sức ti từ.
Sở cống hà niên tuyệt,
Nghiêu phong cựu tục nghi.
Trường dụ phiên bắc khấu,
Nhất vọng quyển tây di.
Bất tất bồi Huyền Phố,
Siêu nhiên đãi Cụ Tì.
Hưu binh chú nông khí,
Giảng điện tịch thư duy.
Miếu toán cao nan trắc,
Thiên ưu thực tại tư.
Hình dung chân lạo đảo,
Đáp hiệu mạc chi trì.
Sứ giả phân vương mệnh,
Quần công các điển ti.
Khủng quai quân phú liễm,
Bất tự vấn sang di.
Vạn lý phiền cung cấp,
Cô thành tối oán tư.
Lục lâm ninh tiểu hoạn,
Vân mộng dục nan truy.
Tức sự tu thường đảm.
Thương sinh khả sát mi.
Nghị đường do tập phượng,
Chính quán thị nguyên quy.
Xứ xứ huyên phi hịch,
Gia gia cấp cạnh truỳ.
Tiêu xa an bất định,
Thục sứ há hà chi.
Điếu lại sơ phần tịch,
Canh nham tiến dịch kỳ,
Địa chưng dư phá phiến,
Đông noãn cánh tiêm hi.
Sài cấu ai đăng Sở,
Lân thương khấp tượng Ni.
Y quan mê thích Việt,
Tảo hội ức du Tuy.
Thưởng nguyệt diên thu quế,
Khuynh dương trục lộ quỳ.
Đại đình chung phản phác,
Kinh quan thả cương thi.
Cao chẩm hư miên trú,
Ai ca dục hoạ thuỳ.
Nam cung tái huân nghiệp,
Phàm bách thận giao tuy.
Lúc xưa khi từ chối chức uý ở Hà Tây,
Vào lúc mới trung hưng lại làm thày vùng Kế Bắc.
Không có tài nên công danh địa vị chậm có,
Cảm thấy bực vì làm quan nơi trung ương cứ bị trì hoãn.
Những ngày theo hầu vua chốn Không Đồng,
Lúc lại nằm bẹp nơi Diễm Dự.
Bèo trôi nhưng vẫn còn được đề bạt,
Cành xoan gãy mà còn đội ơn vua.
Gặp trắc trở không ở trong Vân đài,
Nhưng vẫn ghi nhớ thơ Trạm lộ.
Vẻ hào hoa thôi xa rồi,
Đầu bạc nay xơ xác.
Vụng về nên mới sa vào nơi rừng rú,
Sống vào thời người ta coi thường bài phú về rượu.
Hiếu Văn Viên cuối cùng cũng im lìm,
Gác Hán tự nó bị bôi đen.
Vì mang bệnh nên không được cùng vua và các quan bàn luận,
Ngượng ngùng mãi trong lòng vì phúc đức ít.
Quyết chí vì sợ chủ bị nhục,
Vung gươm mặc dù sức đã suy.
Đất nước là nơi mình trổ tài,
Vòng công danh là nơi mình hẹn hò.
Máu chảy lênh láng ngay trước mặt,
Nước mắt nước mũi đầy hai má.
Vùng sông ngòi thuyền lầu trôi dạt,
Nơi trung nguyên tiếng trống với tù và ai oán.
Hầm ngăn giặc nối liền tới Bạch Địch,
Ngói vỡ vì chiến tranh rớt ngay thềm cung vua.
Nơi thờ các vị vua trước là chốn trang nghiêm và linh thiêng,
Các quan ráng sức theo di mệnh của vua.
Vùng Hằng sơn còn quân đột kỵ,
Nơi Liêu Hải vẫn giăng cờ.
Nhà nông than phiền về cung cấp keo sơn,
Người sống tránh né gai góc.
Vị thủ lãnh gìn giữ được cái thể lớn,
Tướng đầu hàng giả bộ có lời khiêm nhường.
Lệ cống nước Sở năm nào chấm dứt vậy,
Việc phong của vua Nghiêu, một tục xưa bị nghi ngờ.
Cố dụ bọn cướp nơi miền bắc,
Bãi bỏ sự giúp đỡ của dân tộc ít người phía tây.
Chẳng cần lấy cảnh Huyền Phố để đền bù,
Mà thật ra núi Cụ Tì cũng là đủ rồi.
Hết chiến tranh nấu vũ khí đúc dụng cụ làm ruộng,
Giảng đường nên mở mang thư viện.
Kế hoạch nhà nước cao xa khó lường,
Lo trời có thật là ở cái đó.
Vóc dáng thật là thảm hại,
Hãy gắng làm chớ trù trừ.
Sứ giả theo lệnh vua,
Các ông có phép tắc riêng.
Sợ trái với thuế má vừa phải,
Không như việc hỏi đến sự khốn khó.
Vạn dặm dân lo cung cấp,
Nơi thành vắng oán hận vô cùng.
Lục lâm há là cái mối lo nhỏ,
Giấc mơ cõi mây mù khó mà truy cứu.
Việc ngay đây là nên nếm mật,
Dân đen có thể nhận ra đạo tặc ở ngay cạnh khoé mắt.
Nơi hội nghị có cả một bày phượng,
Nhưng nhận định chính là theo vết nứt đầu từ mu rùa.
Nơi nơi hịch truyền vang dội,
Nhà nhà vội vã cầm dùi nhọn.
Xe ông Tiêu Dục đã không giữ được yên,
Sứ giả tới đất Thục để làm gì.
Câu cá ở dòng chảy xiết tức là gìn giữ kinh điển xưa,
Cày ruộng trên núi là chờ đợi đi quân cờ.
Đất nung may có được cái quạt rách,
Đông làm ấm chỉ có chút vải thưa.
Sói mang hại tới còn đau khổ bước lên cao,
Con lân bị thương khiến khóc như ông Trọng Ni.
Nhầm lẫn mà mang áo mũ sang vùng Việt để bán,
Học vẽ và văn thì tới vùng sông Tuy.
Ngắm trăng thấy cây quế mùa thu dài thêm,
Mặt trời nghiêng xua đuổi hoa quỳ còn thấm sương.
Sân lớn cuối cùng trở về với thuần phác,
Kinh quan là do xác chết cứng.
Gối cao cứ vờ ru giấc ngủ ngày,
Bài ca buồn muốn cho ai nghe.
Nam cung nêu công lao,
Dù thế nào cũng cẩn thận cùng lui binh.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 24/04/2015 22:42
Xưa chức uý Hà Tây từ bỏ,
Khi phục hưng, vùng Kế làm thày.
Công danh muộn vì bất tài,
Chức tỉnh lang dám mở lời than van.
Chốn Không Đồng đứng bên giúp chúa,
Nay thì vùng Diễm Dự sống nhàn.
Bèo trôi cứ bị cuốn tràn,
Cái thân gỗ tạp mà còn hưởng ân.
Nơi đài Vân đã ngăn chỗ đứng,
Thơ Trạm lộ thừa hứng vẫn ngâm.
Hào hoa thôi tít mù tăm,
Mà nay đầu bạc thương tâm như vầy.
Chốn suối rừng sa lầy vì lú,
Sống gặp khi bài phú chẳng ưa.
Tương Như rồi cũng tù mù,
Tiếng tăm tự nó lu mờ thế thôi.
Vua quan lánh vì đời bệnh tật,
Cảm thấy buồn được ít ân ban.
Vẫn ngại vua bị lầm than,
Gươm thiêng tuy tuổi gần tàn, vẫn vung.
Đất nước chính là vòng xoay sở,
Công danh kia ấy chỗ hẹn hò.
Trước mắt máu đổ chan hoà,
Mà hai bên má đầm đìa biết sao.
Khắp sông ngòi thuyền lầu lướt sóng,
Nơi trung nguyên ốc, trống buồn vang
Hào ngăn giặc tới biên cương,
Ngói tan rơi tới bên tường hoàng cung.
Mồ vua trước một vùng tôn kính,
Các quan răm rắp lệnh vua truyền.
Quân chủ lực nơi Hằng sơn,
Nơi Liêu Hải đó cờ còn bay tung.
Người làm ruộng than dùng keo dính,
Kẻ sống thì cố tránh tật thương.
Tư lệnh thế trận chủ trương,
Tướng bị bãi cố tìm đường đậy che.
Cống Sở, lệ nào khi bị bỏ,
Phong Nghiêu tục xưa cũ đáng ngờ.
Giặc phía bắc khuyên ra hồi chánh,
Cầu tây di nên tránh đi thôi.
Huyền phố chẳng cần phải đòi,
Thản nhiên ngồi đợi ở nơi Cụ Tì.
Đúc nông cụ bỏ đi binh khí,
Giảng điện thêm sách vở cho hay.
Quốc sách khó mà trình bày,
Lo trời chính tại cái này mà thôi.
Thương cho cái hình hài nhếch nhác,
Hãy ra công gánh vác việc đời.
Sứ giả theo lệnh vua rồi,
Các ông phép tắc rạch ròi đã ghi.
Chỉ ngại nỗi thuế thu quá mức,
Chẳng giống như săn sóc vết thương.
Nơi nơi đều phải cấp cung,
Nơi thành vắng vẻ lòng nung oán thù.
Dân nổi dậy chớ cho là nhỏ,
Mộng mây kia thật khó mà theo.
Việc này cảnh giác đề cao,
Nhân dân biết rõ nơi nào là sai.
Nơi nghị trường tranh tài chim phượng,
Nét nứt đầu nên ngóng mà theo.
Nơi nơi truyền hịch hò reo,
Nhà nhà vội vã mang đeo dùi dài.
Dẹp loạn dùng xe Tiêu chẳng được,
Sứ còn sang đất Thục làm gì.
Đi câu là giữ lễ nghi,
Cấy cày bên núi đợi đi thế cờ.
Đất nung nóng, có dư quạt hỏng
Mùa đông có áo mỏng ấm thân.
Beo doạ mà vẫn trèo lên,
Trọng Ni khóc nức nghe lân gặp nàn.
Mang mũ áo bán nhầm sang Việt,
Về sông Tuy, nghệ thuật chuốt trau.
Ngắm cây quế trong trăng thu,
Ánh chiều sương rớt cành quỳ lắt lay.
Rồi dân chúng cũng quay về gốc,
Chiến công xây với xác kẻ thù.
Gối cao nằm cứ gật gù,
Ca buồn nào có ai hò hát theo.
Cung nam nghiệp lớn dù nêu,
Nhưng mà hoà giải đến điều vẫn hơn.