Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú
Thời kỳ: Thịnh Đường
3 bài trả lời: 3 bản dịch

Đăng bởi tôn tiền tử vào 05/05/2015 21:57

過客相尋

窮老真無事,
江山已定居。
地幽忘盥櫛,
客至罷琴書。
掛壁移筐果,
呼兒問煮魚。
時聞系舟楫,
及此問吾廬。

 

Quá khách tương tầm

Cùng lão chân vô sự,
Giang sơn dĩ định cư.
Địa u vong quán trất
Khách chí bãi cầm thư.
Quải bích di khuông quả,
Hô nhi vấn chử ngư.
Thì văn hệ chu tiếp,
Cập thử vấn ngô lư.

 

Dịch nghĩa

Ông già khốn đốn thật ra còn chuyện gì nữa,
Núi sông đã là nơi ở rồi.
Nơi đất vắng quên cả tắm rửa, chải đầu,
Khách tới thì bỏ cả sách.
Dời giỏ trái cây treo trên vách,
Gọi con nhắc coi chừng nồi cá nấu.
Nghe tiếng cột chèo thuyền,
Sau đó là hỏi thăm nhà ta.


(Năm 767)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Lão kiết còn gì nữa,
Non nước ở yên rồi.
Chốn vắng quên tắm rửa,
Khách tới đàn sách lơi.
Nhắc con nồi cá nấu,
Treo tường giỏ quả rời.
Có nghe chèo thuyền cột,
Sau đó hỏi nhà tôi.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phan Ngọc

Già, nghèo, thực rỗi rãi,
Ở hẳn núi sông thôi.
Đất vắng không rửa, chải,
Khách lại, đàn sách rời.
Lấy lồng quả trên vách,
Gọi con nấu cá xơi.
Nghe tiếng chèo chợt buộc,
Có khách đến nhà chơi.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Thật rảnh rỗi ông già cùng khổ
Núi sông là nơi ở sẵn rồi
Đất nhàn tắm chải bỏ lơi
Khách mà tìm tới thôi chơi sách đàn
Lấy trái cây giỏ treo trên vách
Nấu cá ăn còn nhắc trẻ làm
Khi nghe thuyền buộc rõ ràng
Tất là khách tới và đang vào nhà.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời