奉酬寇十侍禦錫見寄四韻,復寄寇

往別郇瑕地,
於今四十年。
來簪禦府筆,
故泊洞庭船。
詩憶傷心處,
春深把臂前。
南瞻按百越,
黃帽待君偏。

 

Phụng thù Khấu thập thị ngự Tích kiến ký tứ vận, phục ký Khấu

Vãng biệt Tuân, Hà địa,
Ư kim tứ thập niên.
Lai trâm ngự phủ bút,
Cố bạc Động Đình thuyền.
Thi ức thương tâm xứ,
Xuân thâm bả tí tiền.
Nam chiêm án Bách Việt,
Hoàng mạo đãi quân thiên.

 

Dịch nghĩa

Trước kia chia tay ở vùng Tuân, Hà,
Cho đến nay là bốn chục năm.
Khi lại gặp nhau vẫn còn trâm với bút trong nhà quan ngự sử,
Tôi vẫn đậu thuyền nơi Động Đình hoài.
Bài thơ nhớ đến chốn đau lòng,
Ý dào dạt thuở trước nắm tay nhau.
Nhìn về phía nam thấy vùng Bách Việt ngăn lối,
Chờ đợi ông đến nghiêng cả thuyền.


(Năm 770)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Xưa Tuân, Hà chia tay,
Tới nay, năm bốn chục.
Ông ngự phủ bút, trâm,
Tôi Động Đình, thuyền chực.
Thơ nhớ chốn đau lòng,
Lòng cảm nắm tay trước.
Nam trông Bách Việt ngăn,
Đợi ông, thuyền muốn rục.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Chia tay ở Tuân Hà ngày trước
Đến nay năm phỏng ước bốn mươi
Thơ từ phủ ngự tới nơi
Lúc thuyền đang đậu nghỉ ngơi Động Đình
Ý thơ gợi đau lòng nơi chốn
Lúc cuối xuân ta nắm tay nhau
Phía nam Bách Việt ngăn sâu
Mũ vàng đội lệch trên đầu chờ ông.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời