鳳凰臺

亭亭鳳凰臺,
北對西康州。
西伯今寂寞,
鳳聲亦悠悠。
山峻路絕蹤,
石林氣高浮。
安得萬丈梯,
為君上上頭。
恐有無母鶵,
飢寒日啾啾。
我能剖心出,
飲噣慰孤愁。
心以當竹實,
炯然無外求。
血以當醴泉,
豈徒比清流。
所貴王者瑞,
敢辭微命休。
坐看綵翮長,
舉意八極周。
自天銜瑞圖,
飛下十二樓。
圖以奉至尊,
鳳以垂鴻猷。
再光中興業,
一洗蒼生懮。
深衷正為此,
群盜何淹留。

 

Phụng Hoàng đài

Đình đình Phụng Hoàng đài,
Bắc đối Tây Khang châu.
Tây bá kim tịch mịch,
Phụng thanh diệc du du.
Sơn tuấn lộ tuyệt tung,
Thạch lâm khí cao phù.
An đắc vạn trượng thê,
Vị quân thướng thướng đầu.
Khủng hữu vô mẫu sồ,
Cơ hàn nhật thu thu.
Ngã năng phẫu tâm xuất,
Ẩm trác uý cô sầu.
Tâm dĩ đương trúc thực,
Quýnh nhiên vô ngoại cầu.
Huyết dĩ đương lễ tuyền,
Khởi đồ tỷ thanh lưu.
Sở quý vương giả thuỵ,
Cảm từ vi mệnh hưu.
Toạ khán thái cách trường,
Cử ý bát cực chu.
Tự thiên hàm thuỵ đồ,
Phi há thập nhị lâu.
Đồ dĩ phụng chí tôn,
Phụng dĩ thuỳ hồng du.
Tái quang trung hưng nghiệp,
Nhất tẩy thương sinh ưu.
Thâm trung chính vi thử,
Quần đạo hà yêm lưu.

 

Dịch nghĩa

Đài Phụng Hoàng cao chót vót,
Phía bắc giáp với châu Tây Khang.
Vị chúa nơi phương tây vốn im lặng,
Nên phượng hoàng cũng bặt tăm hơi.
Núi cao, mà không có lối đi lên,
Đá trong rừng ngùn ngụt bốc hơi.
Ước gì có được cái thang cao ngàn thước,
Ta sẽ vì các ngươi mà bắc thang để leo tới tận đỉnh núi.
Tổ phuợng hoàng vắng chim mẹ,
Nên các con đói khát kêu thảm thiết.
Ta sẽ mổ ngực ta lấy tim và máu cho các ngươi ăn uống,
Để cho các ngươi bớt cơn đau buồn.
Tim này thay cho trái trúc,
Tươi rói đâu có cần gì nữa.
Máu này thay cho nước suối ngọt,
Cũng chảy mau như dòng suối trong kia vậy.
Điều cần là giúp nhà vua,
Chứ thân này nào có đáng kể gì.
Ta sẽ ngồi chờ mi mọc đủ lông cánh,
Rồi mi sẽ bay lên vút trời cao.
Mi sẽ lên trời và mỏ ngậm bức tranh vẽ từ trời mang về,
Xuống đậu nơi nhà có mười hai tầng lầu.
Tranh vẽ để nhà vua theo,
Phượng sẽ được ghi công lớn.
Giúp vua dựng lại cơ nghiệp,
Chỉ một lần ra tay mà làm hết nỗi khổ trên thế gian này.
Lòng ta chỉ mong mỏi có thế,
Mà sao giặc giã cứ vẫn sảy ra hoài?


(Năm 759)

Nguyên chú: "Sơn tuấn, nhân bất chí cao đỉnh, phương dư thắng lãm. Phụng Hoàng đài tại Đồng Cốc huyện đông nam thập lý, nhị thạch như khuyết, Hán hữu phụng hoàng lai thê, cố danh" 山峻,人不至高頂,方輿勝覽。鳳皇臺在同谷縣東南十里,二石如闕,漢有鳳皇來棲,故名 (Núi cao, người không lên tới đỉnh được, đất rộng cảnh đẹp. Đài Phượng Hoàng ở vào mười dặm phía đông nam huyện Đồng Cốc, hai tảng đá như cổng, thời Hán có chim phượng hoàng tới đậu, vì thế mang tên này).

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nhượng Tống

Chon von kìa đỉnh Phượng Hoàng
Bắc trông sang trấn Tây Khang cách vời
Chúa Tây nay bặt tăm hơi
Véo von tiếng phượng nghe thời cũng không
Núi cao, lối tuyệt nẻo không
Hơi mây rừng đá bốc xông tận trời
Tìm đâu muôn trượng thang dài?
Vì chàng đỉnh núi lên chơi hoạ là
Gặp đàn phượng nhỏ xót xa
Không mồi, không mẹ, kêu la ngày ngày
Trái tim ta quyết phanh ngay
Cho chim ăn, uống hoạ khuây dạ sầu
Tim này trái trúc kém đâu:
Đỏ tươi rờ rỡ phải cầu nữa chi?
Máu này suối gọi kém gì?
Dòng trong leo lẻo dễ bì được ru?
Quý điều ứng với nhà vua
Mạng hèn dù phải liều cho dám nài
Ngồi xem lông cánh mọc dài
Cất mình khắp tám phương trời bay tung
Ngậm tranh báu tự thiên cung
Xuống mười hai lớp lầu rồng nghỉ ngơi
Tranh đem dâng trước Con Trời
Để công phượng lại trăm đời không quên
Gây dừng nghiệp cả lại lên
Muôn dân trút sạch lo phiền bấy nay
Đó điều mong ước lòng nay
Cớ sao quân giặc quấy rầy chưa thôi?


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Anh Nguyên

Phượng Hoàng sừng sững đài cao,
Nhìn về phía bắc, nơi nào châu Khang.
Im lìm Tây Bá suối vàng,
Tiếng chim phượng cũng mênh mang xa vời.
Núi cao, đường mất dấu rồi,
Rừng cây, chướng khí núi đồi còn bao.
Làm sao có được thang cao,
Vì vua lên đỉnh, nguy nào nản đâu.
Sợ rằng phượng mất mẹ lâu,
Suốt ngày đói khát âu sầu kêu than.
Phanh tim, lấy máu, cũng làm,
Cho chim ăn uống ủi an nỗi buồn.
Trái tim thay trái trúc thường,
Quang minh chính đại không vương mong cầu.
Máu như suối Lễ từ lâu,
Há là bỏ phí sông sâu chan hoà.
Trọng vì điềm tốt phượng ra,
Hy sinh thân mọn có là bao nhiêu.
Cánh, lông rực rỡ dài nhiều,
Cất mình tám hướng được điều an vui.
Bản đồ, ngậm, liệng trên trời,
Từ từ đáp xuống ở nơi các lầu.
Dâng vua thờ phụng từ đầu,
Chương trình rộng lớn mong cầu xét soi.
Nghiệp xưa rạng rỡ phục hồi,
Lo âu, rửa sạch cho người dân đen.
Đáy lòng chỉ ước nhỏ nhen,
Cớ sao bọn cướp đê hèn ở lâu!...

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Đỉnh Phượng Hoàng chót vót,
Bắc giáp Tây Khang châu.
Chúa tây nay im tiếng,
Phượng hoàng cũng biến đâu.
Núi cao, không có lối,
Hơi đá ngát rừng sâu.
Sao có thang ngàn thước,
Vì ngươi, leo đỉnh đầu.
Sợ không có chim mẹ,
Đói lạnh ngày kêu gào.
Ta xin hiến tim, máu,
Ăn uống đỡ khát khao.
Tim thay cho trái trúc,
Tươi rói, thoả ước ao.
Máu thế nước suối ngọt,
Như dòng trong chảy mau.
Điều quí là giúp chúa,
Thân này há kể nào.
Chờ mi lông mọc đủ,
Cất cánh tung trời cao.
Từ trời ngậm tranh quý,
Xuống đậu mười hai lầu.
Tranh quí đem dâng chúa,
Công phượng ghi mai sau.
Giúp dựng lại cơ nghiệp,
Một quét, sạch ngàn sầu.
Lòng này mong như thế,
Bọn giặc không sợ sao.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Đài Phụng Hoàng vươn cao sừng sững
Châu Tây Khang bắc đứng từ lâu
Vua thời Tây Hán nay đâu
Mà sao tiếng phụng như hầu còn đây?
Không lối mòn non cao chót vót
Khí núi rừng vương vất ở trên
Ví thang vạn trượng có liền
Vì vua ta sẽ leo lên đỉnh trời
Ngờ rằng có phụng noì côi cút
Ban ngày đang đoí khóc tỉ tê
Moi tim ta sẽ cho mi
Thoả thuê ăn uống, vỗ về cô đơn
Quả tim cũng tương đương quả trúc
Rõ ràng là không ước điều chi
Máu ta suối ngọt khác gì?
Há dòng nước chảy so bì được sao?
Quý là điềm mi trao hoàng đế
Việc lớn thành, chết có xá chi
Ngồi chờ lông cánh của mi
Mọc dài đủ sức bay đi khắp trời
Từ mây cao mỏ rời bức thuỵ
Bay xuống cung tầng thứ mười hai
Thuỵ này sẽ giúp vua tài
Thảo ra sách lược, công mi để đời
Giúp chấn chỉnh, tu bồi đế nghiệp
Tẩy rửa cho dân hết ưu phiền
Đó là cốt lõi điềm lành
Mà sao đạo tặc hoành hành chưa yên?

Chưa có đánh giá nào
Trả lời