嚴公仲夏枉駕草堂,兼攜酒饌,得寒字

竹裏行廚洗玉盤,
花邊立馬簇金鞍。
非關使者徵求急,
自識將軍禮數寬。
百年地辟柴門迥,
五月江深草閣寒。
看弄漁舟移白日,
老農何有罄交歡。

 

Nghiêm công trọng hạ uổng giá thảo đường, kiêm huề tửu soạn, đắc hàn tự

Trúc lý hành trù tẩy ngọc bàn,
Hoa biên lập mã thốc kim an.
Phi quan sứ giả trưng cầu cấp,
Tự thức tướng quân lễ số khoan.
Bách niên địa tịch sài môn quýnh,
Ngũ nguyệt giang thâm thảo các hàn.
Khan lộng ngư chu di bạch nhật,
Lão nông hà hữu khánh giao hoan.

 

Dịch nghĩa

Dưới trúc đặt bếp, rửa bàn ngọc,
Bên hoa dừng ngựa yên vàng tụm lại.
Không dính dáng gì đến sứ giả cần phải đi gấp,
Mà tự biết đón chào tướng quân mấy lần thảnh thơi.
Trăm năm nơi đất hẹp, cửa tre khuất nẻo,
Năm tháng nơi sông sâu gác cỏ lạnh lẽo.
Coi dỡn thuyền câu đi trong nắng nhạt,
Ông già làm ruộng có gì để mà cùng vui tận lực.


(Năm 762)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Dưới tre đặt bếp, sửa soạn bàn,
Bên hoa dừng ngựa, gộp các yên.
Chẳng phải sứ vua mà mong gấp,
Vẫn hay lễ tướng mấy lần khoan.
Năm tháng sông sâu, gác cỏ lạnh,
Vạn năm đất hẹp, cửa tre len.
Coi giỡn thuyền câu xuôi dưới nắng,
Già làng vui nhộn hết thấy ham.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Bếp dưới tre rửa lau bàn ngọc
Ngựa bên hoa xúm xít yên vàng
Chẳng coi sứ giả vua sang
Tướng quân tự biết dễ dàng xã giao
Nhà đơn sơ cửa bèo khuất nẻo
Tháng năm nơi gác cỏ lạnh lùng
Thuyền câu trong nắng đi cùng
Lão nông cũng cố vui chung hết lòng.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời