暮春題瀼西新賃草屋其一

久嗟三峽客,
再與暮春期。
百舌欲無語,
繁花能幾時。
谷虛雲氣薄,
波亂日華遲。
戰伐何由定,
哀傷不在茲。

 

Mộ xuân đề Nhương Tây tân nhẫm thảo ốc kỳ 1

Cửu ta Tam Giáp khách,
Tái dữ mộ xuân kỳ.
Bách thiệt dục vô ngữ,
Phồn hoa năng kỷ thì.
Cốc hư vân khí bạc,
Ba loạn nhật hoa trì.
Chiến phạt hà do định,
Ai thương bất tại tư.

 

Dịch nghĩa

Ở vùng Tam Giáp đã lâu không vừa ý,
Cuối xuân dời sang chỗ mới.
Mặc lời bàn tán, chỉ giữ im lặng,
Chốn phồn hoa chỉ ở được một thời gian thôi.
Thung lũng nhiều đất chưa khai phá, mây và khí núi nhẹ nhàng,
Sóng trên sông nhấp nhô, nắng lên trễ.
Chinh chiến đến bao giờ mới hết,
Đau thương không có tại nơi đây.


Chùm bài này được làm năm 767. Đỗ Phủ chán cảnh Thành Đô, nên lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng, ông rời bỏ thảo đường đưa gia quyến xuống thuyền đi Quỳ Châu. Ông mướn một ngôi nhà cỏ ở Nhương Tây và trực tiếp lao động mưu sinh.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Ở Tam Giáp lâu không vừa ý
Cuối xuân dời sang chỗ mới này
Mặc lời bàn tán đông tây
Chốn phồn hoa ấy tôi đây không màng
Thung lũng nhiều đất hoang màu mỡ
Mây nhẹ nhàng, sóng vỗ, nắng lên
Nước non giặc giã chưa yên
Nhưng tang thương vẫn không trên đất này

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Tam Giáp cứ ở mãi,
Lại hẹn cuối xuân đây.
Trăm lưỡi nhưng không nói,
Nhiều hoa được mấy ngày?
Sóng loạn, trễ ánh sáng,
Hang không, mỏng hơi mây.
Giặc giã bao giờ dẹp,
Cho đời bớt đắng cay.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời