Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Phiêu bạc tây nam (760-770)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 16/02/2015 18:49
客居所居堂,
前江後山根。
下塹萬尋岸,
蒼濤鬱飛翻。
蔥青眾木梢,
邪豎雜石痕。
子規晝夜啼,
壯士斂精魂。
峽開四千里,
水合數百源。
人虎相半居,
相傷終兩存。
蜀麻久不來,
吳鹽擁荊門。
西南失大將,
商旅自星奔。
今又降元戎,
已聞動行軒。
舟子候利涉,
亦憑節制尊。
我在路中央,
生理不得論。
臥愁病腳廢,
徐步視小園。
短畦帶碧草,
悵望思王孫。
鳳隨其皇去,
籬雀暮喧繁。
覽物想故國,
十年別荒村。
日暮歸幾翼,
北林空自昏。
安得覆八溟,
為君洗乾坤。
稷契易為力,
犬戎何足吞。
儒生老無成,
臣子憂四番。
篋中有舊筆,
情至時復援。
Khách cư sở cư đường,
Tiền giang, hậu sơn căn.
Hạ tiệm vạn tầm ngạn,
Thương đào úc phi phiên.
Thông thanh chúng mộc sao,
Tà thụ tạp thạch ngân.
Tử quy trú dạ đề,
Tráng sĩ liễm tinh hồn.
Giáp khai tứ thiên lý,
Thuỷ hợp số bách nguyên.
Nhân hổ tương bán cư,
Tương thương chung lưỡng tồn.
Thục ma cửu bất lai,
Ngô diêm ủng Kinh Môn.
Tây nam thất đại tướng,
Thương lữ tự tinh bôn.
Kim hựu giáng nguyên nhung,
Dĩ văn động hành hiên.
Chu tử hậu lợi thiệp,
Diệc bẵng tiết chế tôn.
Ngã tại lộ trung ương,
Sinh lý bất đắc luân (luận).
Ngoạ sầu bệnh cước phế,
Từ bộ thị tiểu viên.
Đoản huề đới bích thảo,
Trướng vọng tư vương tôn.
Phượng tuỳ kỳ hoàng khứ,
Ly tước mộ huyên phồn.
Lãm vật tưởng cố quốc,
Thập niên biệt hoang thôn.
Nhật mộ quy kỷ dực,
Bắc lâm không tự hôn.
An đắc phúc bát minh,
Vị quân tẩy càn khôn.
Tắc, Tiết dị vi lực,
Khuyển Nhung hà túc thôn.
Nho sinh lão vô thành,
Thần tử ưu tứ phiên.
Khiếp trung hữu cựu bút,
Tình chí thì phục viên.
Nơi nhà ở của khách ở,
Phía trước là sông phía sau là chân núi.
Bên dưới bờ hào dài cả vạn thước,
Là sóng xanh nổi lăn tăn.
Các chóp cây màu xanh,
Các ngấn đá nắm thấp bên dưới.
Chim quốc ngày đêm kêu,
Hồn thiêng người tráng sĩ thu lại.
Kẽm mở ra bốn ngàn dặm,
Nước tụ từ trăm nguồn.
Người với hổ chia nhau sống.
Cùng hại nhau mà sau rốt cùng sống còn.
Gai Thục mãi chẳng tới,
Muối Ngô chứa đầy Kinh Môn.
Vùng tây nam vị đại tướng vừa mất,
Kẻ buôn bán từ sao băng.
Nay lại lột chức nguyên nhung,
Đã nghe làm rung xe đang di chuyển.
Người lái đò may nhiều khi qua sông,
Cứ đành nhờ vào việc coi trọng người lãnh đạo.
Ta nay ở giữa đường,
Cuộc mưu sinh không thể bàn được.
Bị đau chân nên nằm buồn,
Lết ra coi khu vườn nhỏ.
Luống nhỏ cỏ xanh um,
Buồn ngóng nghĩ tới gia đình vua.
Chim phượng đã theo chim hoàng mà đi,
Chim sẻ trong dậu ban chiều kêu om.
Ngắm vật nghĩ tới quê nhà,
Mười năm xa làng vắng.
Cánh nào kia mà sớm chiều về,
Rừng bắc chỉ thấy một khoảng đen tối.
Làm sao mà vét tám biển,
Vì vua mà rửa sạch đất trời.
Ông Tắc, ông Tiết dễ có sức,
Rợ Khuyển Nhung sao mà đủ sức thôn tính.
Tên học trò tới già rồi mà không thành,
Là kẻ bề tôi chỉ biết lo rợ bốn phương.
Trong tráp sẵn có bút cũ,
Lúc lòng dạt dào thì lại nhờ đến nó.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 16/02/2015 18:49
Khách ở là nhà ở,
Sau chân núi, trước sông.
Dưới hào dài vạn thước,
Sóng xanh cứ cuốn vòng.
Chỏm cây màu xanh ngắt,
Ngấn đá dưới cây cong.
Đêm ngày cuốc kêu thảm,
Tráng sĩ hồn vấn vương.
Kẽm mở bốn ngàn dặm,
Trăm nguồn góp nên dòng.
Người, cọp chia nhau ở,
Hại nhau nhưng cùng còn.
Kinh môn, muối Ngô đọng,
Vải Thục lâu đã ngưng.
Tây nam mất đại tướng,
Con buôn cứ xốn xang.
Nay lại cử tướng mới,
Đã nghe xe chuyển rung.
Bác lái chờ dịp tiến,
Đó là nhờ kỷ cương.
Liếm sống chẳng dám nói,
Vì ta ngay giữa đường.
Nằm queo vì bệnh phổi,
Đi bộ ra coi nương.
Luống cụt cỏ xanh mọc,
Vương tôn những ngóng trông.
Sẻ dậu chiều huyên náo,
Chim vợ đi theo chồng.
Coi cảnh nhớ làng cũ,
Mười năm xa xóm làng.
Sớm tối vài cánh sải,
Rừng bắc sáng vắng không.
Vì vua tưới trời đất,
Nếu lật tám đại dương.
Tắc, Tiết dễ góp sức,
Sao nuốt nổi, Khuyển Nhung.
Học trò, già chẳng đạt,
Bề tôi e bốn phương.
Trong tráp sẵn bút cũ,
Động lòng đem ra vung.