Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Lưu vong làm quan (756-759)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 29/03/2015 10:07, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Admin vào 21/04/2024 12:56
故人何寂寞,
今我獨淒涼。
老去才難盡,
秋來興甚長。
物情尤可見,
辭客未能忘。
海內知名士,
雲端各異方。
高岑殊緩步,
沈鮑得同行。
意愜關飛動,
篇終接混茫。
舉天悲富駱,
近代惜盧王。
似爾官仍貴,
前賢命可傷。
諸侯非棄擲,
半刺已翱翔。
詩好幾時見,
書成無信將。
男兒行處是,
客子鬥身強。
羈旅推賢聖,
沈綿抵咎殃。
三年猶瘧疾,
一鬼不銷亡。
隔日搜脂髓,
增寒抱雪霜。
徒然潛隙地,
有靦屢鮮妝。
何太龍鍾極,
於今出處妨。
無錢居帝裏,
盡室在邊疆。
劉表雖遺恨,
龐公至死藏。
心微傍魚鳥,
肉瘦怯豺狼。
隴草蕭蕭白,
洮雲片片黃。
彭門劍閣外,
虢略鼎湖旁。
荊玉簪頭冷,
巴箋染翰光。
烏麻蒸續曬,
丹橘露應嘗。
豈異神仙宅,
俱兼山水鄉。
竹齋燒藥灶,
花嶼讀書床。
更得清新否,
遙知對屬忙。
舊官寧改漢,
淳俗本歸唐。
濟世宜公等,
安貧亦士常。
蚩尤終戮辱,
胡羯漫倡狂。
會待襖氛靜,
論文暫裹糧。
Cố nhân hà tịch mịch,
Kim ngã độc thê lương.
Lão khứ tài nan tận,
Thu lai hứng thậm trường.
Vật tình vưu khả kiến,
Từ khách vị năng vương (vong).
Hải nội tri danh sĩ,
Vân đoan các dị phương.
Cao, Sầm thù hoãn bộ,
Thẩm, Bão đắc đồng hành.
Ý khiếp quan phi động,
Thiên chung tiếp hỗn mang.
Cử thiên bi Phú, Lạc,
Cận đại tích Lư, Vương.
Tự nhĩ quan nhưng quý,
Tiền hiền mệnh khả thương.
Chư hầu phi khí trịch,
Bán thích dĩ cao tường.
Thi hảo kỷ thì kiến,
Thư thành vô tín tương.
Nam nhi hành xử thị,
Khách tử đấu thân cường.
Ky lữ thôi hiền thánh,
Trầm miên để cữu ương.
Tam niên do ngược tật,
Nhất quỷ bất tiêu vong.
Cách nhật sưu chi tuỷ,
Tăng hàn bão tuyết sương.
Đồ nhiên tiềm khích địa,
Hữu điến lũ tiên trang.
Hà thái long chung cực,
Ư kim xuất xử phương.
Vô tiền cư đế lý,
Tận thất tại biên cương.
Lưu Biểu tuy di hận,
Bàng công chí tử tàng.
Tâm vi bàng ngư điểu,
Nhục sấu khiếp sài lang.
Lũng thảo tiêu tiêu bạch,
Thao vân phiến phiến hoàng.
Bành môn, Kiếm Các ngoại,
Quắc lược, Đỉnh Hồ bàng.
Kinh, ngọc trâm đầu lãnh,
Ba, tiên nhiễm hàn quang.
Ô ma chưng tục sái,
Đan quất lộ ưng thường.
Khởi dị thần tiên trạch,
Câu kiêm sơn thuỷ hương.
Trúc trai thiêu dược táo,
Hoa dư độc thư sàng.
Cánh đắc thanh tân phủ,
Dao tri đối thuộc mang.
Cựu quan ninh cải Hán,
Thuần tục bản quy Đường.
Tế thế nghi công đẳng,
An bần diệc sĩ thường.
Xi Vưu chung lục nhục,
Hồ Yết mạn xương cuồng.
Hội đãi áo phân tĩnh,
Luận văn tạm khoả lương.
Bạn xưa sao mà vắng bặt,
Một mình tôi buồn rầu.
Tới già tài khó hết,
Thu về hứng càng cao.
Lòng người càng dễ thấy,
Bạn văn chưa thể quên.
Cả nước biết bậc danh sĩ,
Chân trời mỗi người một nơi.
Hai ông Cao, Sầm thảnh thơi,
Cùng được đi chung với Thẩm, và Bão.
Ý đạt thì khép kín lại không bay nhảy,
Thơ thành là tới chốn lâng lâng.
Cái buồn của Phú và Lạc cao vút tận trời,
Sát với thời nay thấy tiếc cho Lư và Vương.
Giống các ông làm quan vẫn là quý,
Nhưng số phận các bậc hiền đời trước thật đáng thương.
Chư hầu chớ có bỏ đi,
Mới nửa phần chế sứ đã bay cao rồi.
Thơ hay chừng nào thấy,
Thư viết xong chưa có kẻ tin cẩn để gửi.
Kẻ làm trai có thái độ như thế đó,
Kẻ xa nhà phải phấn đấu để thân mạnh lên,
Sống nơi đất khách chính là để trở nên người hiền,
Im lìm lâu là để tránh tai hoạ.
Ba năm còn chứng bệnh sốt rét ngã nước.
Một con quỷ đó chưa có tiêu tan.
Cứ cách ngày là kiểm tra lại tuỷ xương,
Khi trời lạnh lên, phải lo phòng giữ tuyết sương.
Thật là vô ích nấp nơi đất ranh giới,
Cỏ vẻ thẹn thùng khi trang điểm đẹp (lo trị bệnh).
Sao đối với tuổi già lại tới mức quá xá như thế,
Giờ đây ra làm quan hay ở ẩn cũng đều có gặp trở ngại.
Không có tiền để sống nơi kinh đô,
Vách trống sống nơi biên cương.
Tuy rằng Lưu Biểu còn để mối hận lại,
Nhưng Bàng Đức công vẫn ẩn tránh cho tới chết.
Lòng nhỏ nhặt nên gần kề với cá, chim.
Thịt nhăn nheo nên sợ lũ sài lang.
Cỏ vùng Lũng bát ngát trắng xoá,
Mây sông Thao lớp lớp vàng.
Cửa núi Bành ngay bên ngoài Kiếm Các.
Đất xứ Quắc ngay bên Đỉnh Hồ.
Nơi vùng Kinh, trâm ngọc trên đầu thấy lạnh,
Nơi đất Ba, giấy thấm ánh sáng của văn chương.
Mè đen hết sấy lại phơi,
Quất đỏ bày ra trước mắt làm mình muốn nếm.
Há có khác với nhà thần tiên hay sao,
Vốn ở làng có đầy đủ núi sông.
Phòng trúc có bếp sấy thuốc,
Đảo hoa có đặt giường đọc sách.
Có phải là khoan khoái như được cái mới không,
Xa biết hai ông hiện đang rất cấp rấp hoang mang.
Chức chế sứ đặt ra từ triều Hán xưa, thế mà sao lại đổi,
Phong tục đã thuần rồi thì về tay nhà Đường.
Giúp đời rất hợp với các ông,
Chịu cảnh nghèo đó là lẽ thường tình dành cho kẻ sĩ.
Xi Vưu bị đánh chết,
Hồ Yết vẫn còn ngông cuồng lắm.
Chờ dịp lúc không khí chiến tranh lắng xuống,
Bàn chuyện văn chương tạm thay thế cho gói cơm.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 29/03/2015 10:07
Bạn cũ sao mà im hơi thế,
Để mình ta nay bị u hoài.
Tuổi tuy già khó hết tài,
Thu về hứng lại càng dài thêm sâu.
Đạo lý đã như hầu thấy rõ,
Các khách thơ chưa có lãng quên.
Dưới trời những kẻ biết tên,
Mỗi người một chỗ tận miền mây xa.
Cao, Sầm có khác là bước chậm,
Với Thẩm, Bào cùng dấn bước đi.
Ý đạt khép lại ngưng bay,
Thơ thành là tới cõi trời hỗn mang.
Tới tận trời buồn thương Phú, Lạc,
Sát gần đây lại tiếc Lư, Vương.
Quan là quí, giống các ông,
Mệnh người hiền trước đáng thương muôn phần.
Các chư hầu chẳng nên vứt bỏ,
Mới khẽ va là đã bay rồi.
Thơ hay chừng nào được coi,
Lá thư sẵn viết, không người gửi đi.
Hành, xử kẻ nam nhi giống vậy,
Kẻ xa nhà giữ lấy tấm thân.
Đất lạ chẳng nể thánh nhân,
Nhún mình để tránh oan khiên đó mà.
Bệnh quái ác đã ba năm khổ,
Một quỉ kia dứt bỏ không rời.
Cách ngày xương tuỷ lại coi,
Tuyết sương phòng giữ khi trời lạnh thêm.
Nơi đất hẹp nằm yên chẳng khá,
Dáng thẹn thùng vì đã thoa hương.
Thân già sao tới mức cùng,
Giờ đây quan, ẩn cũng từng hại thôi.
Không có tiền ở nơi kẻ chợ,
Căn nhà tồi nơi xó biên cương.
Lưu Biểu tuy hận còn mang,
Giữ gìn tới chết, ông Bàng đem theo.
Lòng nhỏ nhặt bám đeo chim cá,
Thịt nhăn nheo phải né sài lang.
Cỏ Lũng trắng xoá một vùng,
Mây Thao lớp lớp trên không vàng khè.
Bành Môn ở ngoài lề Kiếm Các,
Tại ngay bên đất Quắc: Đỉnh Hồ.
Vùng Kinh, trâm ngọc đầu trơ,
Xứ Ba giấy thấm vần thơ sáng ngời.
Rổ mè đen hết phơi lại sấy,
Chùm quất đỏ trông thấy mà thèm.
Khác chi nhà của thần tiên,
Một làng sông núi đi kèm xứng đôi.
Trong phòng trúc đặt nồi hong thuốc,
Dưới khóm hoa, giường đọc sách bày.
Cái mới có được thật may,
Xa hay hai bác đúng ngày hỡi ơi.
Chức quan cũ Hán thời, sao đổi,
Tục thuần rồi theo lối về Đường
Giúp đời xứng với hai ông,
Với cảnh nghèo khó, sĩ thường vui thôi.
Vua Xi Vưu thế rồi bị giết,
Vẫn ngông cuồng Hồ Yết gây trò.
Khi nào loạn lạc yên cho,
Đem văn bàn luận thay tô cơm lành.