Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Trường An khốn đốn (746-755)
車轔轔,
馬蕭蕭,
行人弓箭各在腰。
耶孃妻子走相送,
塵埃不見咸陽橋。
牽衣頓足攔道哭,
哭聲直上干雲霄。
道旁過者問行人,
行人但云點行頻。
或從十五北防河,
便至四十西營田。
去時里正與裹頭,
歸來頭白還戍邊。
邊亭流血成海水,
武皇開邊意未已。
君不聞漢家山東二百州,
千村萬落生荊杞。
縱有健婦把鋤犁,
禾生隴畝無東西。
況復秦兵耐苦戰,
被驅不異犬與雞。
長者雖有問,
役夫敢申恨。
且如今年冬,
未休關西卒。
縣官急索租,
租稅從何出。
信知生男惡,
反是生女好。
生女猶得嫁比鄰,
生男埋沒隨百草。
君不見青海頭,
古來白骨無人收。
新鬼煩冤舊鬼哭,
天陰雨濕聲啾啾。
Xa lân lân,
Mã tiêu tiêu,
Hành nhân cung tiễn các tại yêu.
Gia nương thê tử tẩu tương tống,
Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều.
Khiên y đốn túc lan đạo khốc,
Khốc thanh trực thướng can vân tiêu.
Đạo bàng quá giả vấn hành nhân,
Hành nhân đãn vân: điểm hành tần.
Hoặc tòng thập ngũ bắc phòng Hà,
Tiện chí tứ thập tây doanh điền.
Khứ thời lý chính dữ khoả đầu,
Quy lai đầu bạch hoàn thú biên.
Biên đình lưu huyết thành hải thuỷ,
Vũ Hoàng khai biên ý vị dĩ.
Quân bất văn: Hán gia Sơn Đông nhị bách châu,
Thiên thôn vạn lạc sinh kinh kỷ?
Túng hữu kiện phụ bả sừ lê,
Hoà sinh lũng mẫu vô đông tê.
Huống phục Tần binh nại khổ chiến,
Bị khu bất dị khuyển dữ kê!
Trưởng giả tuy hữu vấn,
Dịch phu cảm thân hận!
Thả như kim niên đông,
Vị hưu Quan Tây tốt.
Huyện quan cấp sách tô,
Tô thuế tòng hà xuất?
Tín tri sinh nam ác,
Phản thị sinh nữ hảo.
Sinh nữ do đắc giá tị lân,
Sinh nam mai một tuỳ bách thảo.
Quân bất kiến Thanh Hải đầu,
Cổ lai bạch cốt vô nhân thu?
Tân quỷ phiền oan, cựu quỷ khốc,
Thiên âm vũ thấp, thanh thu thu.
Xe chạy ầm ầm
Ngựa hý vang
Người ra đi cung tiễn đều đeo bên lưng
Cha mẹ vợ con đi đưa tiễn
Bụi tung mù mịt chẳng thấy cầu Hàm Dương
Níu áo, giậm chân, khóc lóc đầy đường
Tiếng khóc than vang lên đến tầng mây cao
Người đi đường qua đó hỏi kẻ ra đi
Kẻ ra đi đáp rằng luôn có việc bắt lính
Có người mới mười lăm tuổi đã đi phòng giữ Hoàng Hà phía bắc
Đến bốn mươi tuổi thì đổi qua khai thác ruộng đất ở phía tây
Khi ra đi viên lý trưởng cho chiếc khăn bịt đầu
Khi trở về đầu đã bạc lại đi trấn thủ biên cương
Ở biên thuỳ máu chảy thành sông thành biển
Ý muốn mở mang bờ cõi của Vũ Hoàng vẫn chưa ngưng
Ông không nghe sao: Mé Sơn Đông nhà Hán gồm hai trăm châu
Ngàn thôn vạn xóm gai góc mọc đầy
Dầu có những người đàn bà khoẻ mạnh vác nổi cây bừa
Thì lúa mọc bừa bãi trên đồng ruộng cũng chẳng có được gì
Quân Tần lại đánh gấp ghê
Bị lùa đi chẳng khác gì gà chó
Ngài dù có hỏi đến
Nhưng kẻ dịch phu này đâu dám tỏ hết nỗi oán hận
Còn như mùa đông năm nay
Lính ở Quan Tây chưa được nghỉ
Quan huyện hối thúc nộp thuế
Thuế tô biết lấy đâu ra
Thế mới biết sinh con trai là xấu
Ngược lại, sinh con gái mới tốt
Sinh con gái còn được gả chồng gần
Sinh con trai chỉ tổ vùi thây trong đám cỏ
Ngài thấy chăng: ở miền Thanh Hải
Xưa đến giờ đống xương trắng không ai thu dọn
Ma mới oán than, ma cũ khóc lóc
Trời đất âm u, mưa rơi rả rích, tiếng than rên rỉ
Trang trong tổng số 1 trang (10 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 12/06/2005 20:14
Xe rầm rầm,
Ngựa hí râng,
Người đi cung tên đeo bên lưng.
Cha mẹ, vợ con chạy theo tiễn,
Bụi mù chẳng thấy cầu Hàm Dương.
Níu áo giậm chân, chặn đường khóc,
Tiếng khóc xông lên thẳng chín tầng.
Khách qua đường thấy, hỏi người đi,
Người rằng: "Bắt đi những mấy kỳ.
Lấy từ mười lăm giữ Hoàng Hà,
Cho đến bốn mươi ra khẩn điền.
Lúc đi ông lý quấn chỏm cho,
Trở về đầu bạc lại đi liền.
Ngoài biên máu chảy thành biển đỏ,
Mở cõi nhà vua ý chưa bỏ.
Há chẳng nghe: nhà Hán Sơn Đông hai trăm châu,
Ngàn thôn muôn xóm ùn gai cỏ.
Ví có đàn bà khoẻ cuốc cày,
Lúa mọc tràn lan khắp bốn bề.
Huống nữa quân Tần quen khổ chiến,
Khác chi gà chó bị lùa đi.
Thương tình, dù ông hỏi,
Nỗi hờn đâu dám nói,
Và mùa đông năm nay,
Lính Quan Tây chưa nghỉ.
Nhà vua bức đòi tô,
Chạy đâu ra tô thuế?
Mới biết sinh con trai,
Chẳng bằng sinh con gái.
Sinh con gái còn được gả gần nhà,
Sinh con trai lấp vùi theo cỏ dại!
Há chẳng thấy miền Thanh Hải kia sao?
Xưa nay xương trắng ai nhặt đâu!
Ma mới kêu oan, ma cũ khóc,
Trời âm mưa thấm, tiếng hu hu
Gửi bởi Vanachi ngày 12/06/2005 20:17
Ngựa hí vang! Xe xình xịch chạy!
Lưng đeo cung ai nấy như nhau
Vợ con cha mẹ chạy sau
Bụi tung nhìn chẳng thấy cầu Hàm Dương
Níu vạt áo đón đường lăn lóc
Vọng tận trời tiếng khóc thảm thê
Qua đường khách hỏi việc chi
Người đi rằng: Chúng tôi đi... đi hoài
Mười lăm tuổi ra ngoài quan ải
Ngoài bốn mươi sang tới đồn điền
Bạc đầu về lại thú biên
Lúc đi ông lý đứng bên bịt đầu
Ngoài biên máu đỏ ngầu như bể
Nhà vua còn chưa nghỉ khai biên
Quan Đông làng xóm muôn nghìn
Hai trăm châu lẻ mọc liền chông gai
Dù gái khoẻ có tài cày cuốc
Đầy đồng sao phá được cỏ đi
Quân Mường lại đánh rát ghê
Bị xua thôi có khác chi chó gà
Ông dẫu muốn hỏi ra manh mối
Tôi dám đâu cạn nỗi đắng cay
Tức như mùa rét năm nay
Quân còn kéo tới Quan Tây ùn ùn
Quan huyện lại gấp dồn sưu thuế
Sưu thuế nào biết chẻ đâu ra
Sinh trai khổ mẹ khổ cha
Thà sinh con gái thế mà lại hay
Sinh gái được gả ngay lân cận
Sinh trai đành vùi lẫn cỏ cây
Chẳng đi ông chẳng có hay
Bể xanh trên bãi xương bày trắng phau
Chồng chất mãi ai nào nhặt hộ
Ma mới phiền ma cũ kêu oan
Những khi trời tối mưa tàn
Tiếng ma ti tỉ khóc than canh dài
Gửi bởi Nguyễn phước Hậu ngày 25/11/2007 17:30
Xe chạy ầm ầm ngựa hí vang
Người đi cung tiễn thắt lưng ngang.
Vợ con cha mẹ đưa từ biệt
Chẳng thấy Hàm Dương, bụi mịt mùng.
Khóc lóc đầy đường, níu áo, chân
Tầng mây vang vọng tiếng than van
Qua đường thăm hỏi người đi lính
Người đáp: Bắt đi những mấy lần.
Mười lăm tuổi giữ Hoàng hà bắc
Bốn chục, qua tây khẩn ruộng nâu
Đổi về lính thú khi đầu bạc
Lý trưởng lúc đi giúp bịt đầu.
Biên thuỳ máu chảy thành sông biển
Ý muốn lấn biên chẳng bỏ đâu
Muôn xóm ngàn thôn gai góc mọc
Sơn Đông nhà Hán mấy trăm châu.
Túng bắt đàn bà vác cuốc bừa
Ruộng đồng lúa lại mọc lưa thưa
Bọn Tần đánh gấp quân ào ạt
Chẳng khác chi gà chó bị xua.
Ngài dù có hỏi đến đông này
Oán hận dịch phu chẳng tỏ bày
Lính ở Quan Tây chưa được nghỉ
Huyện quan hối thúc thuế thu ngay.
Thuế tô giờ lấy ở đâu ra?
Mới biết sinh trai xấu cả nhà!
Sinh gái gả gần là tốt số
Còn trai, thây vập chiến trường xa.
Ở miền Thanh Hải thấy gì sao?
Xương trắng xưa giờ có nhặt đâu
Ma mới oán than, ma cũ khóc
Mưa rơi, trời ám tiếng rầu rầu!
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi Phụng vũ cửu thiên ngày 20/08/2008 06:39
Xe chạy ầm ầm
Ngựa hí vang vang
Người ra đi cung tên trên vai hai hàng
Cha mẹ vợ con chạy theo tiễn
Cầu Hàm Dương đâu khuất bụi trần ai mù mịt
Níu áo, giậm chân khóc lóc đầy đường
Vang vọng đầy trời nghe thảm thương
Đi ngang qua hỏi chuyện người ra đi
Người đáp: Bắt đi đã mấy kì
Mười lăm đã bắt ra Hoàng Hà phía Bắc
Đến bốn mươi về phía Tây khai đất nâu
Khi đi ông Lý cho khăn bịt đầu
Lúc về tóc bạc lại ra biên ải
Biên thuỳ máu đỏ như suối chảy
Ý vua mở cõi chẳng bỏ đâu
Ông không nghe à: nhà Hán Sơn Đông hai trăm châu
Ngàn thôn vạn xóm gai góc mọc như mâu
Có cho đàn bà khoẻ cày cuốc
Lúa mọc bãi bừa trên đồng ruộng
Quân Tần khổ chiến đánh thành quen
Bị lùa đi như gà chó súc sinh hèn
Ông dù có hỏi
Uất hận đâu dám nói
Còn như đông vừa rồi
Lính Quan Tây đâu nghỉ
Huyện quan bức đòi tô
Đào đâu qua cơn bĩ
Thế mới biết sinh con trai là tội
Chẳng thà sinh con gái cho rồi
Sinh con gái gả ngay lân cận
Sinh con trai thân vùi dưới cỏ đen
Ông chưa nghe à: ỡ tận miền Thanh Hải
Xương đầy đồng có ai buồn đem nhặt
Ma mới vãn than, ma cũ khóc lóc
Trời tối mưa rơi tiếng hu hu
Rầm xe lăn, vang vang ngựa hí,
Đều bên sườn, vũ khí cung thương.
Bụi mù khuất nẻo Hàm Dương,
Người thân rần rật bên đường tiễn đưa.
Níu chân áo dây dưa than khóc,
Tiếng khóc than thấu ngất trời cao.
Qua đường hỏi lính xem sao,
Rằng: theo sổ bộ ào ào tuyển quân.
Cỡ mười lăm canh tuần sông bắc,
Đến bốn mươi tây bắt khai hoang.
Nhỏ đi lý trưởng dỗ an,
Khi về tóc bạc còn sang biên phòng.
Hai trăm châu Sơn Đông ai biết,
Vạn nghìn làng, vườn miệt cỏ hoang.
Biên thùy máu chảy ngập đàng,
Mà lòng xâm lấn Hán Hoàng không lay.
Ví vợ nhà sâu cày bẫm cuốc,
Lúa mọc lên chẳng thuộc lối hàng.
Huống Tần chinh chiến gian nan,
Lùa quân như thể chó ngan ngoài đồng.
Bậc trưởng lão chạnh lòng gạn hỏi,
Lính thú bao khổ nỗi khôn bày.
Ấy như mùa lạnh năm nay,
Binh phòng Tây ải chưa thay hạn kỳ.
Thuế đến hạn quan ty hăm hở,
Lấy gì đong, hết cớ vô phương.
Sinh trai xấu hổ ấy dường,
Sinh gái trái lại dễ thường mà hay.
Gái chồng gần lất lây nhờ vả,
Trai chết xa xác rã cỏ vùi.
Thấy chăng Thanh Hải xa vời,
Xưa nay xương trắng, có người nhặt sao!
Ma cũ khóc, ma mới gào,
Líu lo ớn lạnh lẫn vào đêm mưa.
Gửi bởi Anh Nguyêt ngày 29/12/2014 09:14
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi ngày 29/12/2014 13:21
Xe ầm ầm, ngựa hý vang,
Người đi, cung nỏ đã mang lưng rồi.
Vợ con, cha mẹ, chẳng rời,
Cầu Hàm chẳng thấy, bụi thôi mịt mùng.
Níu chân, kéo áo, chẳng ngừng,
Khóc than vang đến mấy từng mây cao.
Bên đường khách hỏi xôn xao,
Người đi chỉ đáp vị nào kiểm tra.
Mười lăm, phòng bắc Hoàng Hà,
Đến khi bốn chục, cất nhà khẩn hoang.
Lúc đi được cấp khăn quàng,
Khi về, đầu bạc, vội vàng ra biên.
Biên thuỳ máu đổ triền miên,
Vũ Hoàng mở mãi vùng biên chẳng ngừng.
Anh nghe chăng:
Sơn Đông, trăm huyện ước chừng,
Ngàn thôn, vạn ấp, mọc rừng cây gai.
Cầy bừa, phụ nữ thay trai,
Đông tây, lúa mọc chẳng ngay ngắn gì.
Quân Tần nhẫn nại đuổi đi,
Khiến cho bỏ chạy khác gì gà đâu.
Bậc trên nếu hỏi đuôi đầu,
Kẻ này dám nói một câu hận lòng?
Mùa đông vừa mới đây xong,
Quan Tây, việc lính chưa mong trở về.
Thuế, quan hối thúc vợ quê,
Lấy đâu mà đóng thuế về cho quan.
Bởi xui nên mới sinh nam,
Hên, sinh được nữ lo làm lo ăn.
Nữ còn gả lối xóm gần,
Nam, trăm cây cỏ, vùi thân chốn nào!
Miền Thanh Hải, chẳng thấy sao,
Xưa nay, xương trắng ai nào thâu đâu.
Cũ và quỷ mới khóc sầu,
Trời mưa mờ mịt, gió đâu ù ù!...
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 02/01/2015 14:03
Xe chạy rầm rầm, ngựa hí vang,
Người đi cung tên đeo sau lưng.
Cha mẹ vợ con chạy theo tiễn,
Bụi mù che lấp cầu Hàm Dương.
Níu áo, dậm chân lăn xuống khóc,
Tiếng khóc vọng lên tận chín từng.
Khách qua đường hỏi kẻ viễn chinh,
Đáp: "Hết dự trận lại trưng binh,
Mười lăm lên bắc: Hoàng Hà giữ,
Bốn mươi mạn tây: việc nông canh!
Khi đi xã trưởng còn cho mũ,
Khi về đầu bạc, lính biên đình.
Biên thuỳ một bể tràn máu đỏ,
Vũ hoàng ý muốn đất thêm nữa.
Há chẳng nghe:
Sơn Đông nhà Hán hai trăm châu,
Ngàn làng, vạn xóm, đầy gai cỏ.
Dù sức đàn bà vác cày nổi,
Nhưng lúa kia mọc không hàng lối.
Huống quân đất Tần chiến đấu hăng,
Sua ra trận hệt gà chó đói!
Ngài tuy có thăm hỏi,
Kẻ này đâu dám nói.
Vả như vụ đông này,
Lính Quan Tây vẫn đợi.
Trên huyện đòi nộp tô,
Tô thuế lo sao nổi.
Vô phúc mới sinh trai,
Gặp may sinh con gái.
Sinh gái còn mong gả chồng gần,
Sinh trai cỏ rác vùi tấm thân.
Kìa chẳng thấy: ở miền Thanh Hải,
Ai người từng lượm đống xương tàn.
Quỉ mới than van, quỉ cũ khóc,
Dưới mưa rên rỉ, giọng oán than!"
Gửi bởi Lâm Xuân Hương ngày 25/02/2016 08:35
Xe chở lương người đun rầm rập
Ngựa chở quan phóng gấp hí vang
Người đi cung tiễn trên lưng
Vợ con, cha mẹ bên đường tiễn đưa
Bụi mù cầu Hàm Dương không thấy
Họ níu chân giữ lại khóc than
Đầy đường vang tiếng than van
Âm thanh tới tận những làn mây cao
Người qua đường hỏi sao đi vậy
Đáp rằng sưu dịch lấy liên miên
Mười lăm tuổi, đắp đê liền
Bốn mươi khai phá ở miền tây hoang
Lúc trở về chuyển sang lính thú
Nơi biên thuỳ máu tụ thành sông
Vũ hoàng vẫn chửa hài lòng
Vẫn còn muốn mở mang vùng biên cương
Hai trăm châu Sơn Đông nhà Hán
Hàng ngàn làng vạn xóm gai đầy
Đàn bà dẫu có cầy hay
Lúa cằn thóc lép chẳng thay được chồng
Lại nữa lính đất Tần chịu khổ
Bị lùa đi như chó như gà
Quan trên có hỏi qua loa
Dịch phu đâu dám kêu ca oán hờn
Như năm nay tiết hàn vừa đến
Lính Quan Tây chưa hạn được về
Huyện quan thúc thuế vợ quê
Lấy đâu mà đóng cho vừa lòng đây
Nay mới biết sinh trai là xấu
Sinh nữ nhi mới thật tốt hơn
Nữ nhi gả bán gần thôn
Trai theo chinh chiến xác chôn sa trường
Ông thấy ở tuyến đầu Thanh Hải
Xương trắng nơi quan ải dãi dầu
Oan hồn than khóc canh thâu
Tỉ tê thành tiếng âu sầu đêm mưa.
Gửi bởi Tạ Trung Hậu ngày 17/04/2019 18:53
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Tạ Trung Hậu ngày 03/07/2019 16:52
Ngựa xe rầm rập ruổi dong
Người đi lưng giắt kiếm cung gọn gàng
Vợ con chạy tiễn bên đàng
Cầu Hàm Dương khuất bụi vàng bốc cao
Giậm chân níu áo nghẹn ngào
Trời mây rộn tiếng khóc gào biệt ly
Khách bên đường hỏi người đi
Đáp rằng quân đã mấy kỳ kéo ra
Mười lăm giữ bắc Hoàng Hà
Bốn mươi tuổi phía tây qua khẩn điền
Ngày đi cấp mũ thanh niên
Ngày về bạc tóc lính biên trú phòng
Biên thuỳ máu chảy thành sông
Hai trăm châu Hán Sơn Đông hoang tàn
Mãi mê mở cõi Võ Hoàng
Muôn ngàn thôn xóm ngập tràn cỏ gai
Một tay thiếu phụ cuốc cày
Đông tây đất Lũng lúa gầy xác xơ
Binh Tần chinh chiến xưa giờ
Lùa dân đi lính giống như chó gà
Người già cũng bị hỏi tra
Làm thân phu dịch xót xa phận người
Năm nay đông lại đến rồi
Quan Tây, lính thú chưa ngơi canh phòng
Thuế tô hà khắc vô cùng
Không tiền không lúa trả chừng nào đây
Sinh trai uổng kiếp sống này
Tấm thân mai một cỏ cây sao đành
Thà sinh con gái đẹp xinh
Gả nơi giàu có nhẹ mình thảnh thơi
Đầu vùng Thanh Hải anh ơi
Xưa nay xương trắng không người nhặt chôn
Hồn ma cũ mới oán hờn
Đêm mưa gió rít âm rờn thịt da
Gửi bởi Trương Việt Linh ngày 31/12/2021 16:28
Xe rầm rập, ngựa hí vang.
Cung tên ai cũng thảy mang đầy mình.
Bụi mờ che khuất Hàm Dương,
Vợ con cha mẹ bên đường tiễn đưa.
Dậm chân nước mắt như mưa,
Tiếng kêu thảm thiết như xua tận trời.
Khách qua liền hỏi mấy lời,
Thưa rằng: đã bị bắt đi nhiều lần.
Ra đi từ tuổi mười lăm,
Đưa lên miền bắc mù tăm xa vời.
Nhọc nhằn mãi tuổi bốn mươi,
Đem thân khai khẩn nơi ngoài tây di.
Cho khăn, bác lý, ngày đi,
Khi về đầu bạc lại đày biên cương.
Biên thuỳ máu chảy đầy đường,
Mở mang bờ cõi Vũ Hoàng chưa thôi.
Sơn Đông nhà Hán trăm châu,
Nghìn làng gai cỏ trước sau mọc đầy.
Đàn bà dẫu vác nổi cày,
Lúa đồng thưa thớt đông tây cả vùng.
Vốn quen khổ chiến, binh Tần,
Lùa đi xem tựa như thân chó gà.
Người trên như có hỏi ta,
Phận hèn đâu dám tỏ ra oán hờn.
Năm nay vừa lúc mùa đông,
Quan Tây chiến sự đùng đùng chưa yên.
Nộp tô quan huyện giục liền.
Thuế tô phải nộp mà tiền lấy đâu!
Sinh trai, biết đó là xui,
Thà sinh con gái được may hơn nhiều.
Con trai cỏ dại lấp vùi,
Còn như con gái gả nơi chồng gần.
Này! Đầu Thanh Hải biết không?
Xưa nay xương trắng chất chồng ai thu!
Quỉ cũ khóc, quỉ mới rầu,
Trời mù, mưa đổ, ma gào thảm thương!