45.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong
Thời kỳ: Thịnh Đường
7 bài trả lời: 7 bản dịch
1 người thích

Đăng bởi Vanachi vào 13/06/2005 16:32, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Admin vào 22/01/2014 14:04

北征-北歸至鳳翔,墨制放往鄜州作

皇帝二載秋,
閏八月初吉。
杜子將北征,
蒼茫問家室。
維時遭艱虞,
朝野少暇日。
顧慚恩私被,
詔許歸蓬蓽。
拜辭詣闕下,
怵惕久未出。
雖乏諫諍姿,
恐君有遺失。
君誠中興主,
經緯固密勿。
東胡反未已,
臣甫憤所切。
揮涕戀行在,
道途猶恍惚。
乾坤含瘡痍,
憂虞何時畢!
靡靡逾阡陌,
人煙眇蕭瑟。
所遇多被傷,
呻吟更流血。
回首鳳翔縣,
旌旗晚明滅。
前登寒山重,
屢得飲馬窟。
邠郊入地底,
涇水中蕩潏。
猛虎立我前,
蒼崖吼時裂。
菊垂今秋花,
石戴古車轍。
青雲動高興,
幽事亦可悅。
山果多瑣細,
羅生雜橡栗。
或紅如丹砂,
或黑如點漆。
雨露之所濡,
甘苦齊結實。
緬思桃源內,
益嘆身世拙。
坡陀望鄜畤,
岩谷互出沒。
我行已水濱,
我僕猶木末。
鴟鳥鳴黃桑,
野鼠拱亂穴。
夜深經戰場,
寒月照白骨。
潼關百萬師,
往者散何卒。
遂令半秦民,
殘害為異物。
況我墮胡塵,
及歸盡華發。
經年至茅屋,
妻子衣百結。
慟哭松聲回,
悲泉共幽咽。
平生所嬌兒,
顏色白勝雪。
見耶背面啼,
垢膩腳不襪。
床前兩小女,
補綻才過膝。
海圖拆波濤,
舊繡移曲折。
天吳及紫鳳,
顛倒在短褐。
老夫情懷惡,
嘔泄臥數日。
那無囊中帛,
救汝寒凜慄?
粉黛亦解苞,
衾裯稍羅列。
瘦妻面復光,
痴女頭自櫛。
學母無不為,
曉妝隨手抹;
移時施朱鉛,
狼藉畫眉闊。
生還對童稚,
似欲忘饑渴。
問事競挽須,
誰能即嗔喝。
翻思在賊愁,
甘受雜亂聒。
新歸且慰意,
生理焉得說?
至尊尚蒙塵,
幾日休練卒?
仰觀天色改,
坐覺妖氛豁。
陰風西北來,
慘澹隨回紇。
其王願助順,
其俗善馳突。
送兵五千人,
驅馬一萬匹。
此輩少為貴,
四方服勇決。
所用皆鷹騰,
破敵過箭疾。
聖心頗虛佇,
時議氣欲奪。
伊洛指掌收,
西京不足拔。
官軍請深入,
蓄銳何俱發。
此舉開青徐,
旋瞻略恆碣。
昊天積霜露,
正氣有肅殺。
禍轉亡胡歲,
勢成擒胡月。
胡命其能久,
皇綱未宜絕。
憶昨狼狽初,
事與古先別。
奸臣竟菹醢,
同惡隨蕩析。
不聞夏殷衰,
中自誅褒妲。
周漢獲再興,
宣光果明哲。
桓桓陳將軍,
仗鉞奮忠烈。
微爾人盡非,
於今國猶活。
淒涼大同殿,
寂寞白獸闥。
都人望翠華,
佳氣向金闕。
園陵固有神,
灑掃數不缺。
煌煌太宗業,
樹立甚宏達!

 

Bắc chinh - Bắc quy chí Phụng Tường, mặc chế phóng vãng Phu Châu tác

Hoàng đế nhị tải thu.
Nhuận bát nguyệt sơ cát.
Đỗ tử tương bắc chinh,
Thương mang vấn gia thất.
Duy thì tao gian ngu,
Triều dã thiểu hạ nhật.
Cố tàm ân tư bị,
Chiếu hứa quy bồng tất.
Bái từ nghệ khuyết hạ,
Truật dịch cửu vị xuất.
Tuy phạp gián tránh tư,
Khủng quân hữu di thất.
Quân thành trung hưng chủ,
Kinh vĩ cố mật vật.
Đông Hồ phản vị dĩ,
Thần Phủ phẫn sở thiết.
Huy thế luyến hạnh tại,
Đạo đồ do hoảng hốt.
Càn khôn hàm sang di,
Ưu ngu hà thì tất?
Mĩ mĩ du thiên mạch,
Nhân yên miểu tiêu sắt.
Sở ngộ đa bị thương,
Thân ngâm cánh lưu huyết.
Hồi thủ Phụng Tường huyện,
Tinh kỳ vãn minh diệt.
Tiền đăng hàn sơn trùng,
Lũ đắc ẩm mã quật.
Bân giao nhập địa để,
Kinh thuỷ trung đãng duật.
Mãnh hổ lập ngã tiền,
Thương nhai hống thì liệt.
Cúc thuỳ kim thu hoa,
Thạch đới cổ xa triệt.
Thanh vân động cao hứng,
U sự diệc khả duyệt.
Sơn quả đa toả tế,
La sinh tạp tượng lật.
Hoặc hồng như đan sa,
Hoặc hắc như điểm tất.
Vũ lộ chi sở nhu,
Cam khổ tề kết thực.
Miến tư Đào Nguyên nội.
Ích thán thân thế chuyết!
Pha đà vọng Phu trĩ,
Nham cốc hỗ xuất một.
Ngã hành dĩ thuỷ tân,
Ngã bộc do mộc mạt.
Si điểu minh hoàng tang,
Dã thử củng loạn huyệt.
Dạ thâm kinh chiến trường,
Hàn nguyệt chiếu bạch cốt.
Đồng Quan bách vạn sư,
Vãng giả tán hà thốt?
Toại linh bán Tần dân,
Tàn hại vi dị vật.
Huống ngã đoạ Hồ trần,
Cập quy tận hoa phát.
Kinh niên chí mao ốc,
Thê tử y bách kết.
Đỗng khốc tùng thanh hồi,
Bi tuyền cộng u yết.
Bình sinh sở kiều nhi,
Nhan sắc bạch thắng tuyết.
Kiến gia bối diện đề,
Cấu nhị cước bất miệt.
Sàng tiền lưỡng tiểu nữ,
Bổ trán tài quá tất.
Hải đồ sách ba đào,
Cựu tú di khúc chiết.
Thiên ngô cập tử phụng,
Điên đảo tại đoản hạt.
Lão phu tình hoài ác,
Ẩu tiết ngoạ sổ nhật.
Ná vô nang trung bạch,
Cứu nhữ hàn lẫm lật.
Phấn đại diệc giải bao,
Khâm trù sảo la liệt.
Sấu thê diện phục quang,
Si nữ đầu tự trất.
Học mẫu vô bất vi,
Hiểu trang tuỳ thủ mạt.
Di thì thi chu duyên,
Lang tạ hoạ mi khoát.
Sinh hoàn đối đồng trĩ,
Tự dục vong cơ khát.
Vấn sự cạnh vãn tu,
Thuỳ năng tức sân hát?
Phiên tư tại tặc sầu,
Cam thụ tạp loạn quát.
Tân quy thả uý ý,
Sinh lý yên đắc thuyết!
Chí tôn thượng mông trần,
Kỷ nhật hưu luyện tốt.
Ngưỡng quan thiên sắc cải,
Toạ giác yêu phân khoát.
Âm phong tây bắc lai,
Thảm đạm tuỳ Hồi Hột.
Kỳ vương nguyện trợ thuận,
Kỳ tục thiện trì đột.
Tống binh ngũ thiên nhân,
Khu mã nhất vạn thất.
Thử bối thiểu vi quý,
Tứ phương phục dũng quyết.
Sở dụng giai ưng đằng,
Phá địch quá tiễn tật.
Thánh tâm phả hư trữ,
Thì nghị khí dục đoạt.
Y Lạc chỉ chưởng thu,
Tây kinh bất túc bạt.
Quan quân thỉnh thâm nhập,
Súc nhuệ hà câu phát.
Thử cử khai Thanh Từ,
Tuyền chiêm lược Hằng Kiệt.
Hạo thiên tích sương lộ,
Chính khí hữu túc sát.
Hoạ chuyển vong Hồ tuế,
Thế thành cầm Hồ nguyệt.
Hồ mệnh kỳ năng cửu?
Hoàng cương vị nghi tuyệt!
Ức tạc lang bái sơ,
Sự dữ cổ tiên biệt.
Gian thần cánh thư hải,
Đồng ác tuỳ đãng tích.
Bất văn Hạ Ân suy,
Trung tự tru Bao Đát?

Chu Hán hoạch tái hưng,
Tuyên Quang quả minh triết.
Hoàn hoàn Trần tướng quân,
Trượng việt phấn trung liệt.
Vi nhĩ nhân tận phi,
Ư kim quốc do hoạt.
Thê lương Đại Đồng điện,
Tịch mịch Bạch Thú thát.
Đô nhân vọng thuý hoa,
Giai khí hướng kim khuyết.
Viên lăng cố hữu thần,
Tẩy tảo số bất khuyết.
Hoàng hoàng Thái Tông nghiệp,
Thụ lập thậm hoằng đạt...

 

Dịch nghĩa

Mùa thu năm thứ hai vua lên ngôi,
Vào ngày tốt tháng tám nhuận.
Bác Đỗ sắp đi xa lên miền bắc,
Thăm qua nhà cửa vợ con.
Trong thời buổi gặp nhiều gian khổ,
Từ triều đến quê ít có ngày thong thả.
Nghĩ thẹn được ơn đầy đủ hơn người,
Chiếu vua ban xuống cho về lều cỏ.
Lạy từ giã dưới bệ vua,
Dùng dằng mãi chưa dám bước ra.
Tuy còn thiếu tư cách bề tôi can vua,
Nhưng vẫn sợ vua có điều sai sót.
Vua thật là bậc vua chúa trung hưng,
Việc cai trị rất cẩn thận, chu đáo.
Giặc Đông Hồ vẫn phản nghịch chưa thôi,
Khiến Phủ này vô cùng căm giận.
Gạt lệ lưu luyến nơi hạnh tại,
Lòng vẫn bàng hoàng trên đường đi!
Đất trời còn chất chứa đau thương,
Nỗi lo buồn biết bao giờ dứt?
Đi lầm lũi trên bờ ruộng,
Khói bếp nhà ai tiêu điều xa xa.
Gặp nhiều những người bị thương,
Rên rĩ và máu chảy.
Quay đầu nhìn huyện Phụng Tường,
Thấp thoáng bóng cờ xí buổi chiều hôm.
Tiến lên trước, núi lạnh lẽo chập chùng,
Nhan nhản vũng nước ngựa uống.
Đi vào vùng trũng huyện Phần,
Sông Kinh nước dào dạt chảy.
Cọp dữ đứng trước mặt ta,
Cất tiếng rống lay đổ núi xanh.
Cúc rũ hoa thu năm nay,
Đã hằn vết bánh xe thuở trước.
Niềm hứng thú vút lên mây xanh,
Trong cảnh u tịch cũng có thể vui thích.
Trái rừng phần nhiều nhỏ lăn tăn,
Quả dẻ lần với dây leo.
Có trái đỏ như son,
Có trái đen như sơn.
Được mưa móc thấm nhuần,
Ngọt đắng gì cũng đều kết quả.
Nghĩ lan man đến cảnh Đào Nguyên,
Càng than tiếc mình vụng về.
Trông nề tế châu Phu gập ghềnh,
Hang hốc liên tiếp lúc ẩn lúc hiện.
Ta đã đi đến bờ sông,
Đầy tớ của ta như còn trên ngọn cây cao.
Cú kêu trong đám dâu vàng,
Chuột đồng chấp tay đứng lồn nhổn trước hang.
Đêm khuya đi qua bãi chiến trường,
Trăng lạnh lẽo chiếu vào xương trắng.
Trăm vạn quân ở ải Đồng Quan,
Sao ngày ấy tan rã chóng thế?
Khiến cho nửa số dân Tần,
Bị tàn hại ra ma hết!
Chính ta rơi vào đám bụi Hồ,
Khi về tóc đã hoa râm.
Đi liền năm đến mái nhà tranh,
Vợ con áo quần vá trăm mảnh.
Tiếng khóc thê thảm vọng trong gió đông,
Suối buồn như cùng nức nở theo.
Thằng con cưng thường khi,
Nước da bạc trắng hơn tuyết.
Thấy cha khóc quay mặt đi,
Chân không tất đầy cáu ghét.
Hai bé gái đứng trước giường,
Cái áo cũn cỡn chỉ quá đầu gối.
Trên hình biển thêu, làn sóng đã đứt gãy.
Đường thêu cũ chệch đi xộc xệch,
Con thiên ngô và con phượng tía.
Lộn xuôi lộn ngược trên manh áo mỏng ngắn,
Thân già thấy trong người không yên,
Vừa rên vừa tả nằm mấy ngày.
Trong bị đâu phải không có lụa,
Để cứu mọi người qua cơn rét căm căm.
Lại mở gói son phấn ra,
Bày la liệt trên tấm chăn.
Người vợ gầy mặt tươi lên,
Hai gái ngây thơ tự chải đầu lấy.
Bắt chước mẹ không gì là không làm.
Chúng trang điểm luôn tay,
Thỉnh thoảng chấm sáp xoa,
Nguệch ngoạc kẻ mày to bè bè.
Được sống trở về với con thơ,
Như quên cả đói khát.
Chúng hỏi chuyện, tranh nhau kéo râu,
Ai nỡ nào la mắng ngay!
Nghĩ lại nỗi buồn khi sa vào giặc,
Nên cứ để chúng quấy phá.
Mới về hãy vui sum họp đã,
Chưa bàn đến việc sinh nhai vội.
Đức chí tôn còn phải long đong,
Có mấy ngày lơi việc luyện quân đâu!
Ngước xem màu trời đã đổi thay,
Ngồi cảm thấy khí yêu quái bằng bạc.
Cơn gió lạnh từ tây bắc thổi tới,
Âm u theo đoàn quân Hồi Hột.
Vua của họ tự nguyện giúp ta,
Họ rất thạo việc xông pha chiến trận.
Ruổi năm nghìn người,
Xua một vạn ngựa.
Bọn họ ít mà tinh nhuệ,
Ai cũng phục họ gan dạ và quả quyết.
Tướng họ dùng nhanh như chim cắt bay,
Họ phá giặc còn hơn tên bắn.
Lòng vua rất tin cậy họ,
Khí thế họ át cả dư luận đương thời.
Y Lạc giơ bàn tay là thu lại được,
Tây Kinh chẳng cần phải hạ nữa.
Quan quân xin tiến sâu vào,
Nhuệ khí có thể vùng lên cùng một loạt.
Trận ấy mở lối qua vùng Thanh Từ,
Quay lại đánh chiếm Hằng Kiệt.
Trời sáng trong chất chứa móc sương,
Chính khí ắt có hồi thanh thoát.
Mầm hoạ đổi từ năm giặc Hồ mất,
Thế hình thành vào tháng bắt giặc Hồ.
Mạng giặc Hồ lâu dài sao được,
Vương nghiệp không thể mất.
Nhớ xưa lúc mới rối ren,
Việc so với thời cổ vẫn khác hẳn.
Bọn gian thần bị vằm nát,
Lũ đồng loã cũng rã tan.
Không nghe Hạ Ân lúc suy đốn ư?
Nội bộ tự giết bọn Bao Đát.
Chu Hán lại dấy lên,
Tuyên, Quang quả là bậc tài giỏi.
Tướng quân họ Trần anh hùng biết bao!
Chống ngọn giáo bừng bừng khí trung liệt.
Thiên hạ không có ai như ông,
Nhờ ông, nước nhà may mới còn.
Điện Đại Đồng lạnh lẽo,
Cửa Bạch Thú quạnh hiu.
Dân kinh đô ngóng bóng cờ vua,
Khí thịnh lại hướng về cửa vàng.
Vườn lăng bền vững thiêng liêng,
Từ trước đến nay không ngừng dọn quét.
Cơ nghiệp Thái Tông hùng vĩ thay!
Công lao gây dựng thật là lớn rộng...


Ngày mồng một tháng tám năm Chí Đức thứ nhất (756), bấy giờ tình hình giặc đã hơi yên, ông xin về Phu Châu thăm gia đình. Không có ngựa, ông phải đi bộ, mãi đến Bàn Châu mới mượn được ngựa. Trên đường đi, ông đã chứng kiến cả một dải quê hương điêu tàn khốn khổ do chiến tranh. Ba bài Khương thôn cùng nhiều bài thơ khác như Thuật hoài, Bành Nha hành,... cũng được viết trong thời gian này và đều là những tác phẩm bất hủ. Tuy còn nhiều hạn chế trong tư tưởng, nhắm mắt ca ngợi triều đình, nhưng bài thơ đã tái hiện được nỗi khốn khổ do nạn binh đao, qua đó bày tỏ quan điểm phản chiến mạnh mẽ của ông. Bài thơ còn đồng thời là những dự cảm của ông về chính sự, bày tỏ nỗi lo ngại trước việc mượn người Hồ để dẹp nội loạn.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (7 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nhượng Tống

Vừa năm hoàng hiệu thứ hai,
Ngày lành tháng tám nhuận, trời về thu.
Có chàng họ Đỗ co ro,
Sắp sang miền Bắc thăm dò vợ con.
Bấy giờ giặc giã hãy còn,
Trong triều, ngoài nội bận luôn đêm ngày.
Xin về, chiếu chỉ cho ngay,
Ơn trên nhuần thấm, niềm tây thẹn thùng.
Tạ từ lạy trước sân rồng,
Bồn chồn chưa dễ yên lòng ra đi.
Can ngăn tuy chẳng giỏi gì,
Sợ vua lầm sót có khi không chừng.
Như người, bậc chúa trung hưng,
Ngang trời, dọc đất, ai bằng được đâu!
Đông Hồ làm phản bấy lâu,
Lòng tôi đây vẫn ruột dàu, gan căm.
Xa hành cung, hạt lệ đầm,
Dọc đường còn vẫn âm thầm sớm trưa.
Đầy trời ghẻ lở nhớp nhơ,
Niềm lo, mối nghĩ bao giờ cho nguôi?
Đồng điền man mác trông vời,
Vì đâu khói bếp, bóng người vắng teo?
Bị thương gặp kể cũng nhiều,
Vỡ đầu, đổ máu rên kêu đầy đường.
Quay đầu nhìn lại Phượng Tường,
Chiều hôm cờ quạt nhập nhoàng nẻo xa.
Mấy trùng núi vắng đi qua,
Đào cho ngựa uống kể ra bao lò?
Quận Mân đất trũng lòng mo,
Sông Kinh nước chảy xô bồ mông mênh.
Trước ta hùm dữ đứng rình,
Tiếng gào chuyển cả non xanh bốn bề.
Thu nay cúc nở vừa thì,
Xe xưa đá ngấn vết đi rành rành.
Hứng cao lên tận mây xanh,
Bao nhiêu phong cảnh quanh mình đáng yêu.
Lon con quả núi cũng nhiều,
Trái đa, trái dẻ chít chiu đầy cành.
Đỏ như son nhuộm xinh xinh,
Đen như sơn phủ long lanh ưa nhìn.
Móc mưa nhuần thấm kết nên,
Thứ chua, thứ ngọt, sang, hèn như nhau.
Bâng khuâng nhớ chuyện nguồn Đào,
Nghĩ mình vụng dại biết bao ở đời.
Châu Phu chừng sắp tới nơi,
Chốc thời lên dốc, chốc thời xuống khe.
Bên khe ta đã lần đi,
Đoái nhìn người ở chưa lìa ngọn cây.
Dâu vàng, cú, vọ đậu đầy,
Hang đen là chỗ cáo, cầy lẩn chui.
Chiến trường đêm tới mấy nơi,
Thăng dăng xương trắng, trăng soi lạnh lùng.
Toán quân trăm vạn ải Đồng,
Năm xưa thua chạy lung tung miền này.
Dân Tần quá nửa chết lây,
Bị đâm, bị chém làm thây không đầu.
Bụi Hồ lẩn quẩn theo nhau,
Giũ xong, tóc đã nhuộm màu hoa râm.
Nhà tranh vắng đã cách năm,
Vợ, con về thấy áo trăm mụn chằng.
Nào than, nào khóc vang lừng,
Suối khe nghẹn giọng, thông rừng thua hơi.
Con nuông thằng bé xinh trai,
Nước da tuyết trắng sánh coi chưa tầy,
Thấy cha quay mặt hờn ngay,
Hai chân đen thủi, không giày, khổ chưa!
Trước giường hai gái ngây thơ,
Vá nan, vá đụp, áo vừa chấm khoeo!
Mụn tìm phá bức tranh thêu,
Bể, non, sóng, nước, xé liều khâu quanh.
Cho nên trên chiếc áo manh,
Thần sông, phượng núi, hai hình còn nguyên.
Thân già bụng dạ không yên,
Trên nôn, dưới tả nằm rên mấy ngày,
Đẫy cha có ít lụa đây,
Cắt may làm áo cho mày đỡ run!
Cởi bao, này phấn, này son,
Này chăn, này đệm hãy còn sót đây.
Vợ già mặt bủng tươi ngay,
Tóc con bù rối liền tay chải đều.
Điểm tô mặt phấn mỹ miều,
Mẹ xoa con cũng xoa theo, tức cười!
Môi son bôi đánh đã rồi,
Mày xanh lạt kẻ đầu đuôi to xù.
Đàn con đú đởn nô đùa,
Ngồi nhìn quên cả đói no trong lòng.
Ai người quát mắng được không?
Nắm râu chúng hỏi lung tung mọi điều.
Quấy rầy thôi cũng cố chiều,
Nhớ khi trong giặc bao nhiêu lo buồn!
Hãy mừng gặp vợ, gặp con,
Mới về, cách sống hãy còn gác bên.
Bề trên đương bước truân chuyên,
Mấy ngày là nghỉ tập rèn quân gia.
Trông lên trời đổi màu da,
Nhìn quanh yêu khí lan ra mịt mùng.
Gió đưa tây bắc lạnh lùng,
Theo vua, Hồi Ngột sẵn lòng giúp oai.
Giống này xông đột có tài,
Lính năm nghìn kẻ, ngựa thời muôn con.
Quân ngoài dùng ít là hơn,
Đánh hăng đã khét tiếng đồn khắp nơi!
Tướng toàn hạng cắt ngang trời,
Phá tan trận giặc như người chẻ tre.
Lòng vua có ý tin vì,
Người ngoài bàn bạc ra bề không vui.
Trong tay, Y, Lạc thu rồi,
Tây Kinh cũng chỉ nay mai lấy về.
Quan quân xin tiến dấn đi,
Đem quân so sức đồng thì đánh nhanh.
Chuyến này cướp lại Từ, Thanh,
Hằng Sơn, Kiệt Thạch để dành lấy sau.
Cơ trời bĩ thái theo nhau:
Có hồi nắng ấm, có chầu tuyết sương.
Vạ qua rồi đến phúc sang,
Giặc rồi phải vỡ, phải hàng không lâu.
Vận Hồ bền vững được đâu
Dòng vua chưa có lẽ nào đã suy!
Nhớ hồi bối rối trước kia,
So cùng đời cổ kể thì khác xa!
Gian thần tội chết không tha,
Bao nhiêu đảng nịnh, lũ tà chẳng dong.
Hạ, Thương nào thấy đường cùng,
Giết trang nghiêng nước, lấy lòng muôn dân.
Tuyên, Quang là bậc minh quân,
Cho nên Chu, Hán có lần lại lên.
Tuốt gươm thề với hoàng thiên,
Tướng Trần Nguyên Lễ gan liền trơ trơ!
Nước nhà được sống đến giờ,
Trừ ông ra, bảo còn nhờ vào ai?
Đại Đồng cung cũ vắng người,
Nọ đền Bạch Hổ thềm ngoài rêu phong.
Dân Kinh ngóng bóng xe rồng,
Lại đua ấm cúng về trong cửa vàng.
Các lăng linh khí mơ màng,
Lễ dâng giữ đủ lệ thường chẳng sai.
Cơ đồ này dựng lâu dài,
Lại lừng lẫy được như đời Thái Tông.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của mailang

Thu thứ hai, hiệu năm Chí Đức,
Tháng tám nhuần, lành nhất tháng đầu.
Mênh mông cõi bắc xanh màu,
Có chàng họ Đỗ ruổi mau về nhà.
Gặp phải buổi, sao mà khó nỗi,
Hiếm ngày nhàn, từ nội tới triều.
Thẹn vì ơn chúa riêng nhiều,
Chiếu cho lui gót thăm lều cỏ xưa.
Dưới thềm rồng, lạy vua từ biệt,
Lòng ngần ngừ, chẳng quyết bước ra.
Can vua dẫu phận không là,
Những mang thấp thỏm vua ta sơ sài.
Đấng trung hưng, ấy tài minh chủ,
Cẩn thận thừa, lại đủ mưu sâu.
Đông Hồ đã dẹp được đâu,
Phủ này, căm phẫn dễ hầu mà tan.
Nơi hành tại, lau hàng lệ chảy,
Đường lối kia, hồn thảy rụng rời.
Đau thương còn ngút đất trời,
Thì lòng sầu hận bao thời mới nguôi.
Men bờ ruộng lần hồi đi tới,
Khói bếp nhà, khắp cõi thê lương.
Người đau lê lết bên đường,
Những là rên rỉ, vãi vương máu đào.
Huyện Phụng Tường, ngoảnh đầu nhìn thoáng,
Cảnh chiều hôm, loang loáng bóng cờ.
Tiến lên núi lạnh mịt mờ,
Hốc hang ngựa uống còn trơ lỗ đầy.
Vào huyện Phần, đất đây trũng xuống,
Dòng sông Kinh, cuồn cuộn chảy xa,
Trước đường cọp dữ chờ ta,
Non xanh gầm rống như là vỡ tan.
Cúc thu này, hoa tàn ủ rũ,
Đá xe lăn, dấu cũ rành rành.
Hứng dâng cao tận mây xanh,
Cảnh nơi u tịch, cũng tình lắm ru.
Trái núi nhiều, cho dù nho nhỏ,
Qủa lật tương, chằn chọ dây lòn,
Qủa thì đỏ tựa như son,
Qủa thì đen thít như hòn mực sơn.
Nơi đây được thấm nhuần mưa móc,
Dẫu ngọt chua cũng mọc tươi rần.
Nguồn đào vào nghĩ phân vân,
Càng than càng tiếc cho thân vụng về.
Đài tế Phu, sơn khê đứng ngắm,
Nham cốc trông, lúc đắm lúc ngời.
Ta đi đến bến nước rồi,
Mà tên nô bộc còn nơi đầu cành.
Đám dâu vàng, lảnh lanh cú rúc,
Trước cửa hang, lúc nhúc chuột đồng.
Chiến trường khuya đến mà trông,
Còn trơ xương trắng, lạnh lùng trăng soi.
Ải Đồng Quan, quân coi trăm vạn,
Nhanh chóng thôi, phân tán nhất hồi.
Dân Tần một nửa con người,
Hại tàn nên cảnh ma trơi ma bờ.
Huống ta nay bụi Hồ bươn bả,
Kịp về nhà tóc đã hoa râm.
Cổng sài về tới một năm,
Vợ con áo xống, vá chằm tứ tung.
Đau lòng khóc tiếng tùng vọng lại,
Nức nở theo suối trải dòng thương.
Con ta vốn dĩ ngày thường,
Tuyết cho trắng nhạt cũng nhường màu da.
Vừa thấy cha, mặt đà quay khóc,
Cáu đầy chân, chẳng tất chẳng tơ.
Bên giường hai gái, con thơ,
Cánh buông quá gối, ngắn đơ áo quần.
Hình vẽ biển, song lăn gãy đứt,
Nếp thêu xưa đường mựt xéo xô.
Những là phượng tía thiên ngô,
Nhăn nheo trên mảnh áo thô lộn nhào.
Lão phu đây, tâm sao không định,
Thổ tả rên, nằm tịnh mấy ngày,
Há không tí lụa bao này,
Rét run, cũng giúp chúng mày qua cơn.
Mở miệng bao, nào son nào phấn,
Trên tấm chăn, cẩn thận bày ra.
Vợ gầy mặt nở như hoa,
Gái thơ tự chải qua loa mái đầu.
Cứ điểm trang, tay hầu không nghỉ,
Học mẹ làm từng tí từng ly.
Thoảng thi chấm vết son chì,
Thiển thô tay vẽ mày mi đậm bè.
Được sống lại, chạy về bên trẻ,
Đói rét hồi như vẻ bẳng ra.
Tranh nhau hỏi kéo râu ta,
Gìơ đây ai giận mắng la cho đành.
Nghĩ lúc buồn nơi nanh vuốt giặc,
Cảnh xô bồ nhẫn nhục khéo hay.
Mới về mặc sức vui vầy,
Mưu sinh tạm gác, giờ đây há bàn.
Đấng chí tôn, gian nan trắc trở,
Việc luyện binh, nào thưở mới thôi.
Ngước trông trời đổi sắc rồi,
Khí thiêng tản mác giờ ngồi mới hay.
Đưa hơi lạnh, gió tây bắc rít,
Theo quân Hồ mù mịt kéo qua.
Kỳ Vương nguyện giúp quân ta,
Quân này được cái giỏi là đánh nhau.
Ngựa xuất phát, nghe đâu một vạn,
Quân đưa sang, ước khoảng năm nghìn.
Tuy quân dẫu ít mà tinh,
Hung hăng cả quyết làm kinh cõi bờ.
Phá địch nhanh cơ hồ tên phóng,
Sở trường như ưng lộng trời cao.
Lòng vua tin tưởng biết bao,
Đương thời khí át lời vào lời ra.
Chỉ phất tay, thu qua Y Lạc,
Còn Tây kinh, chinh phạt chẳng cần.
Quan quân cứ tiến sâu dần,
Khắp nơi khí thế rần rần ùn lên.
Đến Thanh Từ, mở nên từ ấy,
Rồi ngoặc qua thu lấy đất Hằng.
Trời quang đường lộ sương giăng,
Oai nghiêm chính khí phải chăng có rồi.
Tai họa chuyển từ hồi Hồ rã,
Tháng bắt Hồ, kế đã định thâu.
Gịăc Hồ mệnh há dài lâu,
Kỷ cương triều chính dễ đâu mà tàn.
Nhớ lúc xưa, gian nan vừa phát,
Ngẫm lại rằng, việc khác xưa nay.
Loạn thần đã bị bầm thây,
Ác quan đồng lõa, cả bầy mạng vong.
Giết Bao Đát, tự trong bè lũ,
Hạ Ân suy, chuyện cũ nghe rồi.
Trung hưng Chu Hán phải thời,
Tuyên Quang rốt cuộc một đời hiền minh.
Trần tướng quân, một mình hào kiệt,
Chống dáo dài, trung liệt lắm thay,
Như ông, thiên hạ khôn tày,
Có ông mà nước đến nay sinh tồn.
Cửa Bạch Thú, u buồn vắng vẻ,
Điện Đại Đồng, se sẽ lạnh lùa.
Dân Kinh mong ngóng cờ vua,
Đến nay khí vượng lại khua cửa vàng.
Ủ hồn thiêng, vườn lăng mườn mượt,
Qúet dọn luôn, từ trước đến giờ,
Thái Tông, hùng vĩ cơ đồ,
Đức công gầy dựng tựa hồ trời cao.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn

Mùa thu năm thứ hai
Vua ngự trên ngai báu
Được lên miền bắc xa
Nơi vợ con nương náu
Giữa gian khổ can qua
Khó khăn khăp mọi nhà
Riêng mình ân mưa móc
Vua cho về thăm nhà
Lạy tạ trước bệ rồng
Bước lui chẳng đành lòng
Thân bề tôi chưa vẹn
Đâu dám lời tôi trung
Vua là đấng con trời
Trị muôn dân tuyệt vời
Nhưng bọn Đông Hồ vẫn
Quấy nhiễu mãi không thôi
Khắp dân tình căm hận
Lời oán than ngất trời
Đành gạt lệ bước đi
Lòng vương vấn trăm bề
Đất trời nhiều ngang trái
Bao giờ hết nhiêu khê
Bước lầm lũi trên đồng
Bếp nhà ai khói vương
Người bị thương rên rỉ
Máu loang lổ trên đường
Quay đầu nhìn Phụng Tường
Bóng cờ giữa chiều buông
Núi trập trùng trước mặt
Nước vũng ngựa lỏng cương
Tới vùng trũng huyện Phần
Sông Kinh chẩy ầm ầm
Cọp lờn vờn trước mặt
Rống vang dội sơn lâm
Cúc rũ giữa mùa thu
Vết xe xưa rêu mờ
Lòng lâng lâng niềm hứng
Trời cao vút xanh lơ
Niềm vui giữa tịch liêu
Cây rừng trái thật nhiều
Dây leo xen quả dẻ
Đen lẫn đỏ son điều
Thấm mưa nắng thuận hoà
Ngọt đắng đều đơm hoa
Tâm vời nguồn đào cũ
Nghĩ mình thật vụng về
Gập ghềnh hướng châu Phu
Hang ẩn hiện lờ mờ
Tới ven bờ sông vắng
Vừng dương hãy còn kia
Cú trong ruộng dâu vàng
Chuột đùa giỡn trước hang
Đêm đi qua chiến địa
Trăng chiếu xương ngổn ngang
Trăm vạn quân Ải Đồng
Bỗng một thoáng bại vong
Khiến dân Tần một nửa
Thành ma thật não nùng
Thân ta bụi Hồ bám
Trở về tóc pha sương
Nơi mái tranh bước về
Nhìn vợ con thảm thê
Áo quần vá trăm mảnh
Cảnh bèo nheo não nề
Âm buồn tiếng suối reo
Thằng con xưa cưng chiều
Mặt xanh xao nhợt nhạt
Quay mặt chả thèm theo
Chân không đầy cáu ghét
Bên chiếc giường vẹo xiêu
Hai đứa con gái đứng
Áo cũn cỡn tiêu điều
Vợ, áo cũ biển thêu
Làn sóng đã gẫy nhiều
Nét dọc ngang xô lệch
Thiên ngô, phượng bèo nheo
Trong áo manh mỏng ngắn
Nhìn đau xót trăm chiều
Dù trong người chẳng yên
Bị tả mấy hôm liền
Cũng mở bao tặng lụa
Bớt nỗi lạnh triền miên
Son phấn bọc trong khăn
Mở ra bầy đầy chăn
Nét sầu nàng tan biến
Con chải đầu lăng xăng
Bắt chước mẹ điểm trang
Phấn son bôi lổ loang
Thỉnh thoảng chấm thoa sáp
Chân mày vẽ bệt ngang
Được gần gũi con thơ
Quên đói khát xác xơ
Trẻ kéo râu đùa giỡn
Đâu lỡ mắng con khờ
Sầu chinh chiến ngổn ngang
Con dại phá chẳng màng
Cùng vui ngày hội ngộ
Việc sinh kế bỏ sang
Thương thiên tử lao đao
Luyện quân bỏ được nào
Nhìn trời mây tang hải
Khí yêu quái dâng cao
Gió lạnh tây bắc qua
Hồi Ngột giúp quân nhà
Cùng quân mình liền cánh
Binh họ giỏi xông pha
Chỉ khoảng năm ngàn quân
Đoàn ngựa gấp hai lần
Binh ít nhưng tinh nhuệ
Họ kiên quyết bền gan
Quân tiến vụt như chim
Phá giặc nhanh hơn tên
Vua hết lòng tin cậy
Mặc dư luận đang lên
Trở tay đã thu Y
Tây Kinh đâu nề gì
Quan quân thêm hừng chí
Muốn cùng tiến một khi
Trận mở lối Thanh Từ
Hằng Kiệt chiếm êm ru
Trời móc sương trong sáng
Chính khí lấn bóng mờ
Hoạ hết lúc tàn Hồ
Thế vững lại như xưa
Khí Hồ sao tồn được
Trước kỷ cương nhà vua
Lúc thời buổi rối ren
Việc khác xưa nào quen
Bọn gian thần đền tội
Lũ đồng loã cũng yên
Chuyện Hạ Ân nguy nan
Bọn Bao Đát tự tan
Chu Hán lên dựng nghiệp
Bậc tài có Tuyên Quang
Tướng Trần đấng anh hùng
Ngọn giáo bừng khí trung
Thiên hạ được bao kẻ
Giang sơn còn nhờ ông
Điện Đại Đồng hoang liêu
Cửa Bạch Thủ quạnh hiu
Khắp hoàng thành ngóng đợi
Vua về tiếng quân reo
Khu vườn lăng thiêng liêng
Vẫn quét dọn thường xuyên
Nghiệp Thái Tông hùng vĩ
Công lớn rộng vô biên

tửu tận tình do tại
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Mùa thu năm thứ hai,
Tháng tám nhuận, ngày tốt.
Miền bắc, Phủ tính lên,
Thăm vợ con qua quít.
Vào lúc khó khăn này,
Nước, nhà, lúc rảnh ít.
Thẹn thấy chịu ơn sâu,
Về quê, chiếu vua duyệt.
Đến từ giã lạy chào,
Áy náy rời cửa khuyết.
Tuy chức làm gián quan,
Sợ vua có sơ sót.
Vua là chúa trung hưng,
Dọc ngang đều thông suốt.
Rợ Hồ phản chưa thôi,
Phủ này còn phẫn uất.
Gạt nước mắt ra đi,
Trên đường lòng thảng thốt.
Trời đất còn đau thương,
Lo lắng bao giờ hết.
Lủi thủi men đường đi,
Khói bếp xa leo lét.
Gặp toàn kẻ bị thương,
Rên rỉ, tràn máu huyết.
Quay đầu hướng Phượng Tường,
Bóng cờ chiều mờ mịt.
Phía trước là núi đèo,
Hố ngựa uống la liệt.
Mân giao nơi đất sâu,
Sông Kinh, nước chảy xiết.
Hổ dữ chắn ngang đường,
Sườn núi vang tiếng hét.
Mùa này cúc nở hoa,
Xe cổ, đá còn vết.
Nguồn hứng tận mây xanh,
Tuy buồn cũng ngắm hết.
Vùng núi trái cây non,
Giây leo cùng quả lật.
Trái kia đỏ như son,
Quả này màu đen kịt.
Có mưa móc thấm nhuần,
Ngọt đắng cũng đều kết.
Chợt nhớ chuyện nguồn Đào,
Bùi ngùi thương mình đệt.
Ngóng về phía châu Phu,
Gềnh hang hiện rồi khuất.
Bến nước mình tới rồi,
Tên hầu còn chót vót.
Cú rúc khóm dâu vàng,
Chuột núi múa trước huyệt.
Nửa đêm qua chiến trường,
Trăng chiếu xương trắng toát.
Đồng quan trăm vạn binh,
Tan rã trong chốc lát.
Khiến nửa dân đất Tần.
Tàn hại ra ma hết.
Huống ta sa bụi Hồ,
Khi về, tóc pha tuyết.
Thâu năm tới nhà tranh,
Vợ con trông bê bết.
Tiếng khóc vọng thông reo,
Suối sầu cũng da diết.
Con trai cưng nhất đời,
Trắng bệch hơn cả tuyết.
Thấy bố bưng mặt buồn,
Chân không bám đầy ghét.
Hai bé gái trước giường,
Áo đụp chấm tới gót.
Cắt tranh biển sóng cao,
Làm miếng vá chằng chịt.
Nghê, phượng thường sánh đôi,
Nay lộn nhào áo cụt.
Lão già bụng chẳng lành,
Thổ tả mấy ngày mệt.
Nếu lụa sẵn trong bao,
Cứu con khỏi đói rét.
Phấn son cũng đưa ra,
Trên mền bày la liệt.
Vợ còm mắt sáng ngời,
Con gái đỏm chải chuốt.
Cái gì cũng theo mẹ,
Điểm trang tay ve vuốt.
Chốc chốc chấm tí son,
Lông mày to ra phết.
Sống về gặp lũ con,
Hầu quên cả đói khát.
Muốn hỏi, cứ kéo râu,
Ai nỡ lòng nào nạt.
Nhớ lúc giặc cầm tù,
Nên mặc chúng phá riết.
Mới về lòng thấy vui,
Cuộc sống chưa thể biết.
Vua còn phải long đong,
Chừng nào khó khăn hết.
Ngước coi trời đổi mầu,
Ngồi xem yêu khí tiết.
Gió lạnh đông bắc về,
Ảm đạm cùng Hồi Hột.
Vua họ hứa giúp ta,
Họ chiến đấu rất tốt.
Giao cho năm ngàn người,
Với ngựa, một vạn thớt.
Quân họ ít mà tinh,
Ai cũng phục dũng liệt.
Phá giặc như tên bay,
Chuyển quân lẹ như cắt.
Lòng vua những cậy nhờ,
Lời đồn đều bị gạt.
Y Lạc: chỉ tay xong,
Tây Kinh trong nháy mắt.
Quan quân xin tiến thêm,
Cùng nổi lên đồng loạt.
Nay tiến đánh Thanh, Từ,
Quay lại chiếm Hằng, Kiệt.
Trời quang, ngầm chứa sương,
Vận bĩ có lúc hết.
Hoạ từ năm đánh Hồ,
Thế tất tháng Hồ diệt.
Rợ Hồ sống được sao,
Kỉ cương đâu dứt tuyệt.
Nhớ đến lúc long đong,
So đời trước khác biệt.
Gian thần bị băm vằm,
Lũ ác đều bị giết.
Không theo thời Hạ, Ân,
Tự giết bọn Bao, Đát.
Chu, Hán được trùng hưng,
Tuyên, Quang là hiền triết.
Tướng họ Trần oai hùng,
Vung gươm dáng lẫm liệt.
Nếu không, ai ra tay,
Nhờ ông, nước bất diệt.
Điện Đại Đồng thê lương,
Cửa Bạch Thú tan nát.
Cờ biếc nhân dân trông,
Cửa vua khí vượng tốt.
Lăng điện vẫn tôn nghiêm,
Chẳng ngơi việc dọn quét.
Huy hoàng thay Thái Tông,
Sự nghiệp thật to tát.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Anh Nguyên

Mùa thu Chí Đức thứ nhì,
Nhuận hai tháng tám, sớm đi an lành.
Đỗ đi miền bắc mới đành,
Vội vàng thu xếp về nhanh thăm nhà.
Gặp thời buổi khó, đường xa,
Triều đình, thôn xóm, ai mà nhàn đâu.
Ngoảnh đầu, thẹn với ân sâu,
Chiếu cho nghỉ phép về lâu thăm nhà.
Cung vua, lễ biệt đi xa,
Nghĩ suy, lo lắng, ngẩn ra không về.
Can ngăn, cân nhắc mọi bề,
Lỡ vua sơ sót, lời quê vắng rồi.
Vua trung hưng, quả đúng thôi,
Kỷ cương nắm vững, tính thời lại siêng.
Phía đông, Hồ phản chưa yên,
Phủ này tức giận muốn điên cả người.
Hành cung, quyến luyến lệ rơi,
Đường đi, hoảng hốt, tâm thời chưa yên.
Nước non thương tích triền miên,
Bao giờ lo sợ buồn phiền hết đây.
Bước theo bờ ruộng cỏ đầy,
Xóm thưa nhà ít, khói bay tiêu điều.
Bị thương, ta gặp phần nhiều,
Vết thương máu rỉ, than kêu não nùng.
Phượng Tường, chợt ngoảnh lại trông,
Chiều, cờ ẩn hiện, lúc không thấy gì.
Núi non trùng điệp khó đi,
Vũng cho ngựa uống còn ghi dấu đầy.
Đồng Mân tựa đáy đất này,
Sông Kinh cuộn chảy ở ngay giữa đồng.
Hổ kia đứng trước ta trông,
Gầm vang, tưởng núi tét không còn lành.
Thu này cúc đã nở nhanh,
Đá còn mang dấu rành rành xe xưa.
Mây xanh gợi hứng hồn thơ,
Cảnh trông u tĩnh thật vừa lòng thay.
Núi non, quả nhỏ tí này,
Trổ ra la liệt, lẫn ngay lật vào.
Hoặc hồng, hoặc giống son sao,
Hoặc đen, thực chẳng khác nào phết sơn.
Móc mưa làm ẩm ướt hơn,
Ngọt hay đắng chát cũng đơm trái liền.
Xa xôi, nghĩ đến Đào Nguyên,
Cảm thương vụng dại cho nên nỗi này.
Châu Phu, đàn tế còn đây,
Núi, hang, khuất hiện đổi thay nhau hoài.
Đã gần bến nước chẳng sai,
Gã hầu còn ở đầu vài ngọn cây.
Cú kêu, dâu uá vàng đầy,
Chuột đồng xúm xít cả bầy trước hang.
Đêm khuya, qua chiến trường hoang,
Trăng soi sương trắng ngổn ngang lạnh lùng.
Đồng Quan, trăm vạn quân hùng,
Một ngày tan tác, lạ lùng, buồn thay.
Khiến dân nửa nước Tần này,
Chết thành ma quỷ, nơi đây vật vờ.
Ta chìm trong gió bụi Hồ,
Kịp về, tóc đã bạc phơ mái đầu.
Về căn nhà cỏ bỏ lâu,
Vợ con, áo vá tới đâu trăm lần.
Khóc vang hoà tiếng thông gần,
Suối buồn tuôn chẩy trước sân nghẹn ngào.
Trai ta trước đẹp thế nào,
Mặt giờ trắng bệch tuyết sao sánh bằng.
Thấy cha, quay mặt khóc ròng,
Chân không, cáu ghét, chạnh lòng xót xa.
Trước giường, hai gái nhỏ ta,
Áo chằng đụp vá, phủ qua gối gầy.
Xé tranh biển sóng vá đây,
Tấm thêu, gẫy khúc vá nay khó nhìn.
Con nghê và phượng nằm im,
Đầu xuôi đuôi ngược vá lên áo này.
Thân già lại bệnh, khổ thay,
Tiêu và ói mửa vài ngày đã qua.
Phải đâu túi chẳng lụa là,
Cứu con run lạnh lấy ra tức thời.
Lại bao, phấn sáp son thôi,
Trải mền, bày khắp mọi nơi trên giường.
Vợ gầy tươi tắn khác thường,
Gái khờ tự lấy lược gương chải đầu.
Làm theo mẹ, sót gì đâu,
Sáng ra trang điểm, lau lau chùi chùi.
Điểm son chốc chốc làn môi,
Chân mày vẽ đậm quá rồi, con ơi!
Sống về thấy trẻ vui ôi,
Như quên đói khát mất rồi còn đâu.
Hỏi han, con cứ kéo râu,
Hỏi ai có thể nói câu nặng lời.
Buồn trong vùng giặc một thời,
Đành cho con cái vui chơi ồn ào.
Mới về, an ủi phần nào,
Mưu sinh, biết nói được sao lúc này.
Nhà vua còn vất vả thay,
Luyện rèn binh mã, mấy ngày nghỉ ngơi!
Ngẩng nhìn trời đổi sắc rồi,
Ngồi nhìn yêu khí khắp nơi toả đầy.
Gió miền tây bắc về đây,
Đi theo Hồi Hột, tràn đầy thê lương.
Vua kia hứa giúp mọi đường,
Chuyên về cưỡi ngựa và thường đánh nhanh.
Giao năm nghìn lính đánh rành.
Ngựa đưa một vạn, tập tành đã lâu.
Người ít, tinh nhuệ làm đầu,
Anh hùng, cương quyết, đâu đâu cũng mừng.
Dùng quân nhanh tựa chim ưng,
Phá tan quân địch nhanh chừng tên bay.
Nhà vua tin tưởng quá thay!...
Những lời bàn tán lúc này dẹp đi.
Thâu Y, Lạc, được tức thì,
Tây Kinh, lấy lại có gì khó đâu.
Quan quân xin được tiến sâu,
Bao lâu rèn luyện bắt đầu tiến lên.
Thanh, Từ, tiến đánh trước tiên,
Quay về, Hằng, Kiệt, chiếm liền cho xong.
Trời quang chứa móc ở trong,
Cho nên chính khí lúc trong, khi mờ.
Hoạ từ năm đánh giặc Hồ,
Thế thành vào tháng giặc Hồ diệt vong.
Giặc Hồ số mạng dài chăng?!
Kỷ cương vua, chớ tưởng rằng dứt đâu.
Nhớ khi loạn lạc bắt đầu,
Tuy so truyện cổ khác nhau ít nhiều.
Gian thần, kết cục đều tiêu,
Tay chân bị đẩy đến nhiều miền xa.
Không nghe Ân, Hạ, suy à,
Đát, Bao, đều bị trong nhà giết nhau.
Hán, Chu, hưng thịnh lại mau,
Tuyên, Quang, sáng suốt như nhau, bậc hiền.
Tướng quân Trần thật oai nghiêm,
Khiến người trung liệt càng lên tinh thần.
Không ông, còn khổ người dân,
Nhờ ông, đất nước dần dần hồi sinh.
Đại Đồng ủ rũ in hình,
Lại nhìn Bách Thú riêng mình đứng im.
Dân kinh, cờ thuý ngóng nhìn,
Những làn khí vượng hướng kim khuyết tràn.
Vườn, lăng, thần vẫn an toàn,
Quét lau, chùi rửa, phải làm, thiếu sao?
Thái Tông, nghiệp sáng biết bao,
Như cây hùng vĩ vút cao giữa trời...

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Thu thứ hai triều vua mới lập
Tháng tám nhuần, ngày tốt tháng này
Phủ tôi phương bắc đi ngay
Về thăm gia quyến bấy rày cách xa
Gặp lúc khó thật là lo lắng
Quan tới dân đều chẳng được yên
Ngẫm mà thẹn với ơn trên
Đã cho chức tước lại kèm về quê
Trước bệ ngọc quỳ lê từ biệt
Khá lâu mà chẳng thiết bước đi
Tài ta tuy chẳng ra gì
Xem ra vua cũng có khi sai lầm
Ngài đúng là người cầm quyền bính
Việc trung hưng toan tính dầy công
Đông Hồ giặc chửa dẹp xong
Phủ này căm phẫn trong lòng khôn nguôi
Lau nước mắt bùi ngùi cất bước
Lên đường còn chứa chất bàng hoàng
Đất trời bao nỗi đau thương
Buồn rầu lo lắng dễ thường khó quên
Lủi thủi đi bước trên đồng ruộng
Khói bếp, người sao luống lưa thưa?
Gặp người ai cũng bị thương
Miệng rên, máu chảy trăm đường xót xa
Huyện Phụng Tường quay qua nhìn lại
Cờ mờ trong nắng quái chiều hôm
Leo lên núi lạnh mà dòm
Vũng cho ngựa uống hãy còn đó đây
Xuống huyện Bân này vùng đất thấp
Nước sông Kinh chảy gấp ra xa
Cọp hung dữ đứng trước ta
Tiếng gầm như xé núi ra hai đàng
Hoa cúc đầu thu đang buông rủ
Dấu xe xưa trên đá còn hằn
Gợi nhiều hứng thú mây xanh
Cảnh hoang vắng cũng vui lòng người qua
Trái dại nhiều nhưng ra nho nhỏ
Đơm lung tung với quả lật xen
Hoặc là đỏ tựa thuốc tiên
Hoặc là đen nhánh như viên mực tròn
Được thấm nhuần bao cơn mưa móc
Ngọt hay chua cũng kết trái đều
Lan man nghĩ tới suối Đào
Lại càng ngán ngẩm mình sao dại khờ
Đàn tế thần châu Phu ngất ngưởng
Núi và hang khi ẩn khi quang
Bờ cao đã đến mé sông
Mà tên đầy tớ ngang tầm ngọn cây
Trong lùm dâu vẳng bầy chim cú
Chuột chắp tay lố nhố trước hang
Đêm khuya qua bãi chiến trường
Ánh trăng lạnh lẽo chiếu xương cô hồn
Cửa Đồng quan quân hơn trăm vạn
Những người xưa sao vội rã tan
Đã làm cho nửa dân Tần
Cùng theo số kiếp làm dân ma hờ
Huống ta bị giặc Hồ chận bắt
Trốn được ra thì tóc hoa râm
Nhà tranh trở lại một năm
Vợ con đói rách loanh quanh tháng ngày
Tiếng gào khóc rừng cây vọng lại
Suối cảm thương nên nghẹn ngào trôi
Thằng con cưng nhất trên đời
Thịt da trắng nõn như trời tuyết sa
Nay quay mặt thấy cha khóc rống
Không vớ mang, chân lấm khó thương
Hai con gái nhỏ bên giường
Váy đà rút ngắn lên ngang gối rồi
Áo tranh biển không khơi sóng nước
Vì mụn chằng che khuất mất rồi
Thuỷ thần, phượng tía rất oai
Nay đem vá đụp bên ngoài váy thô
Già này bị bụng vừa làm xấu
Ói, đi tiêu mất mấy ngày đêm
Há trong bao, lụa không đem
Để cho con mặc qua cơn lạnh này?
Chăn màn lấy ra bày la liệt
Lại còn kèm thêm chút phấn son
Vợ gầy mặt sáng hẳn lên
Gái thơ chải tóc làm duyên vui cười
Bắt chước mẹ làm chơi đủ thứ
Mặc sức bôi son thử ban mai
Phấn hồng cũng trát bôi hoài
Lông mày nguệch ngoạc, vụng tay to đùng
Được sống sót bên đàn con trẻ
Vui sướng không dám kể đói mà
Vặt râu tranh hỏi chuyện ta
Ai mà lòng nỡ mắng la bây giờ
Nhớ lúc bị giặc Hồ giam lỏng
Nên mặc cho bọn chúng quấy rầy
Mới về sum họp trước thôi
Việc làm sẽ tính hạ hồi bàn sau
Đức vua còn đang sầu gió bụi
Luyện quân binh chẳng thiếu ngày nào
Ngửa trông khí tượng trên cao
Hung tinh bàng bạc đang vào trời trong
Gió lạnh thổi từ phương tây bắc
Mang theo quân Hồi Ngột tiến ra
Vua Hồi thuận giúp vua ta
Họ đi ngựa giỏi, rất là hiên ngang
Họ đưa sang năm ngàn binh tướng
Và một muôn ngựa giống chạy nhanh
Họ tuy ít, nhưng hùng anh
Nơi nơi nể phục họ giành chiến công
Binh tiến nhanh như bành chim ó
Phá tan thành mau tựa tên bay
Lòng vua tin tưởng quân này
Trong lòng quyết bỏ ngoài tai lắm lời
Một vẫy tay thu hồi Y, Lạc
Tây kinh thì vừa phát đã thâu
Quan quân xin tiến thêm sâu
Đặng đem nhuệ khí ngõ hầu phản công
Thanh, Từ dựa thế đông lấy được
Hằng, Kiệt thì cũng tước được thôi
Điềm cho sương móc đầy trời
Ấy là chính khí gặp thời thắng to
Hồ tiêu vong trong năm thế chuyển
Tình thế này sẽ chiến thắng mau
Vận Hồ không thịnh được lâu
Kỷ cương đất nước dễ đâu lu mờ
Nhớ năm xưa khi vừa loạn lạc
Tình thế nay đã khác lắm rồi
Gian thần đã chết hẳn hoi
Huống hồ đồng đảng cũng hồi tan hoang
Nhà Hạ, Ân suy vong được biết
Mang họ Bao, họ Đát hành hình
Nhà Chu, nhà Hán trung hưng
Cũng nhờ Quang Vũ, Tuyên Vương góp phần
Nhờ tướng quân họ Trần dũng mãnh
Giơ cao cây búa mạnh lập công
Không ai làm được như ông
Nhờ ông đất nước mênh mông vẫn còn
Điện Đại Đồng cô đơn ủ rũ
Trước cửa cung Bạch Thú vắng không
Ngọn cờ hoa thuý dân trông
Tốt lành khí thế hướng tòng kinh đô
Nơi Viên lăng phụng thờ thần khí
Việc trùng tu, hương khói chuyên cần
Thái tông dựng nghiệp ban ân
Như cây cổ thụ vút tầng trời cao!

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phan Ngọc

Năm thứ hai, mùa thu, Chi Đức (757)
Tháng tám nhuần, mồng một, ngày lành.
Đỗ toan lên Bắc, xuất hành,
Vội vàng thăm hỏi gia đình ra sao.
Gặp thời buổi gian lao vất vả,
Cả triều đình, thôn dã rộn ràng.
Thẹn mình ơn nặng đã mang,
Vua còn cho phép lên đường về thăm.
Đến trước thềm lạy xin từ giã,
Lòng đắn đo không nỡ bước ra.
Tuy can gián kém người ta,
Vẫn lo hoàng thượng lỡ mà sai chăng?
Nhà vua bậc trung hưng xứng đáng,
Mọi việc lo đều đúng cả rồi.
Đông Hồ làm phản chưa thôi,
Làm tôi, thân Đỗ chẳng nguôi căm thù.
Dạ bồn chồn, giã từ cửa khuyết,
Gạt lệ thầm khôn xiết lo âu.
Đất trời còn lắm thương đau,
Trăm điều lo lắng lúc nào mới nguôi?
Bước lủi thủi cố noi đường ruộng,
Khói bếp tàn, cảnh huống vắng teo.
Người mang thương tích rất nhiều,
Máu tuôn rên rỉ la kêu trên đường!
Ngoảnh cổ lại, Phượng Tường vừa bỏ,
Trong chiều tà, cờ đỏ nhấp nhô.
Đường đi hết núi lại gò,
Ngổn ngang vũng nước đào cho ngựa dùng.
Vào đất Phần, cảnh đồng đất trũng,
Nước sông Kinh chảy rộng mông mênh.
Trước ta, hổ vẫn rập rình,
Tiếng gầm như xé rừng xanh, núi dài!
Mùa thu này cúc hoa vừa nở,
Dấu xe in trên đó rành rành.
Hứng cao vút tận mây xanh,
Cảnh u nhàn đó thật tình dễ yêu.
Trái mọc núi phần nhiều đều nhỏ,
Dây leo xen với quả giẻ gai.
Quả trông đỏ chót son tươi,
Quả đen lay láy như người ta sơn.
Mưa gia ơn thấm nhuần đầy đủ,
Ngọt, đắng đều có quả như nhau.
Bâng khuâng nhớ cảnh Nguồn Đào,
Ngậm ngùi riêng tiếc mình sao vụng về,
Mắt hướng về Phu Châu, chốn ấy,
Hang ghềnh trông, khi thấy khi không.
Thầy đi đã đến bến sông,
Tớ còn vắt vẻo lưng chừng ngọn cây.
Khóm dâu vàng đâu đây cú rúc,
Chuột đồng còn lúc nhúc cửa hang,
Nửa đêm, qua bãi chiến trường,
Ánh trăng lạnh chiếu đống xương trắng tàn.
Trăm vạn quân Đồng Quan vừa đóng,
Tan rã sao mà chóng thế kia!
Đất Tần một nửa dân ta,
Bỗng dưng đều hoá thành ma cả rồi!
Ta đã rơi vào đời gió bụi,
Về đến nhà, tóc đổi hoa râm.
Mái tranh mới cách một năm,
Vợ con quần áo vá chằm trăm nơi!
Khóc thảm thiết, cây đồi vang vọng,
Suối khe buồn nghẹn giọng hoạ theo.
Thằng con, quý cực nuông chiều,
Thương thay, tuyết chẳng trắng đều bằng da!
Nó thấy cha, quay đầu khóc nức,
Chân lấm lem chẳng tất tiếc gì.
Đầu giường hai gái đứng lì,
Áo quá đầu gối, vá thì trăm nơi!
Cắt tranh thêu để may vá vội,
Đường thêu nhăn chắp nối sai rồi!
Thiên ngô, phượng núi nực cười,
Lộn xuôi, lộn ngược trên người các con.
Thân ta già chẳng yên bụng dạ,
Phải trên nôn, dưới tả mấy ngày.
Giờ cha mang lụa về đây,
May cho chúng mặc rét này đỡ run!
Các gói đựng phấn son có đủ,
Đem bầy lên chăn cũ cho nhìn.
Vợ gầy mắt sáng hẳn lên,
Con gái tự chải đầu liền, thơ ngây.
Trong mọi việc làm ngay theo mẹ,
Cũng vuốt ve, tô vẽ luôn tay.
Sáp son mặt cứ vẽ đầy,
Bôi lên nguệch ngoạc, lông mày dài ra.
Được về nhà ngắm trông lũ nhỏ,
Lòng mừng vui, quên cả đói, đau.
Chuyện trò, con túm kéo râu,
Làm sao mắng lũ tí nhau cho đành!
Nhớ ngày giặc giam mình cực khổ,
Nên cứ cười mặc chúng nó trêu.
Được về, hãy cứ vui đều,
Làm ăn sinh sống là điều bàn sau.
Đức vua còn giãi dầu gió bụi,
Lo luyện quân chẳng rỗi một ngày.
Ngẩng xem trời đã đổi thay,
Nhìn xem, yêu khí tràn đầy mênh mông!
Cơn gió lạnh từ Đông Bắc lại,
Hồi Ngột kia đã tới ào ào.
Vua Hồi Ngột giúp, may sao!
Họ quen cưỡi ngựa xông vào hàng quân.
Họ chỉ cần năm ngàn binh sĩ,
Ngựa vạn con, như thế đủ rồi.
Họ cần ít nhưng phải tài,
Dũng cảm, kiên quyết, chẳng ai sánh bằng.
Quân tung ra, như ưng, như cắt,
Phá địch như tên sắt tung bay.
Lòng vua tin chẳng lung lay
Mặc ai dị nghị, chẳng thay đổi nào.
Miền Lạc Dương thu vào như bỡn,
Thành Tràng An chắc chắn lấy về.
Quan quân xin đánh dấn đi,
Nhuệ khí đã sẵn, chớ trì hoãn lâu.
Cả hai châu Từ, Thanh chiếm đứt,
Miền núi non Hằng, Kiệt chiếm sau.
Trời cao, sương móc đã lâu,
Bây giờ chính khí bắt đầu nổi lên.
Năm diệt Hồ giờ bèn tính được,
Tháng bắt Hồ thấy trước hôm nay.
Số Hồ quyết chẳng còn dài,
Kỉ cương đất nước thật may, vẫn còn!
Nhớ ngày xưa, hoảng hồn, vất vả,
Nhưng so xưa, nay đã khác rồi
Bọn gian thần đã hết đời,
Bè gian, đảng ác đến thời phải tan.
Chẳng nhớ xưa nhà Ân, nhà Hạ,
Đát Kỷ cùng Bao Tự mạng vong.
Nhà Chu, nhà Hán trung hưng,
Tuyên Vương, Quang Vũ hết lòng vì dân.
Trần Nguyên Lê tướng quân oanh liệt,
Giơ giáo lên quyết tỏ lòng trung.
Không ông, ai dám dốc lòng,
Nhờ ông, đất nước mới mong có rày.
Điện Đại Đồng buồn thay lạnh lẽo!
Bạch Thú giờ cỏ héo cây khô.
Kinh thành ngóng đợi cờ vua,
Khí thiêng đất nước hướng về cửa cung.
Thần khí các miếu làng còn cả,
Việc chăm nom đâu lẽ dám lơ.
Thái Tông lừng lẫy cơ đồ,
Công nghiệp to lớn phải lo giữ gìn.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Trả lời