Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Phiêu bạc tây nam (760-770)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 26/02/2015 18:51
司徒天寶末,
北收晉陽甲。
胡騎攻吾城,
愁寂意不愜。
人安若泰山,
薊北斷右脅。
朔方氣乃蘇,
黎首見帝業。
二宮泣西郊,
九廟起頹壓。
未散河陽卒,
思明偽臣妾。
復自碣石來,
火焚乾坤獵。
高視笑祿山,
公又大獻捷。
異王冊崇勳,
小敵信所怯。
擁兵鎮河汴,
千里初妥帖。
青蠅紛營營,
風雨秋一葉。
內省未入朝,
死淚終映睫。
大屋去高棟,
長城掃遺堞。
平生白羽扇,
零落蛟龍匣。
雅望與英姿,
惻愴槐裏接。
三軍晦光彩,
烈士痛稠疊。
直筆在史臣,
將來洗箱篋。
吾思哭孤塚,
南紀阻歸楫。
扶顛永蕭條,
未濟失利涉。
疲苶竟何人,
灑涕巴東峽。
Tư đồ Thiên Bảo mạt,
Bắc thu Tấn Dương giáp.
Hồ kỵ công ngô thành,
Sầu tịch ý bất khiếp.
Nhân an nhược Thái Sơn,
Kế Bắc đoạn hữu hiếp.
Sóc phương khí nãi tô,
Lê thủ kiến đế nghiệp.
Nhị cung khấp tây giao,
Cửu miếu khởi đồi áp.
Vị tán Hà Dương tốt,
Tư Minh nguỵ thần thiếp.
Phục tự Kiệt Thạch lai,
Hoả phần càn khôn liệp.
Cao thị tiếu Lộc Sơn,
Công hựu đại hiến tiệp.
Dị vương sách sùng huân,
Tiểu địch tín sở khiếp.
Ủng binh trấn Hà Biện,
Thiên lý sơ thoả thiếp.
Thanh dăng phân doanh doanh,
Phong vũ thu nhất diệp.
Nội tỉnh vị nhập triều,
Tử lệ chung ánh tiệp.
Đại ốc khứ cao đống,
Trường thành tảo di điệp.
Bình sinh bạch vũ phiến,
Linh lạc giao long hạp.
Nhã vọng dữ anh tư,
Trắc sảng hoè lý tiếp.
Tam quân hối quang thải,
Liệt sĩ thống trù điệp.
Trực bút tại sử thần,
Tương lai tẩy tương khiếp.
Ngô tư khốc cô trủng,
Nam kỷ trở quy tiếp.
Phù điên vĩnh tiêu điều,
Vị tế thất lợi thiệp.
Bì niết cánh hà nhân,
Sái thế Ba Đông giáp.
Quan tư đồ vào năm cuối của niên hiệu Thiên Bảo,
Đã huy động quân đội vùng mình trấn nhiệm lên chiếm lại miền bắc.
Ngựa Hồ công phá thành trì của ta,
Buồn lặng thinh nhưng ý không thanh thản.
Người cứ vững như núi Thái,
Vùng Kế Bắc bị cắt ngay hông phải.
Không khí vùng bắc bỗng xôi xục lên,
Đầu đen thấy được cơ nghiệp nhà vua.
Hai vua đến khóc ở phía tây,
Chín miếu thờ sao mà đổ nát nhiều như thế.
Quân giặc đóng ở Hà Dương chưa tan rã,
Tư Minh vờ xin hàng.
Lại từ vùng Kiệt Thạch tới,
Lửa bốc tràn lan khắp trời đất.
Ngạo nghễ cười vào mặt An Lộc Sơn,
Ông lại báo tin thắng trận lớn.
Do công lao, được phong vương tuy không trong hoàng tộc,
Bọn giặc nhỏ nghe tin cũng đủ khiếp sợ.
Mang quân trấn đóng tại sông Biện,
Cả một dải dài vạm dặm mới được yên.
Lũ ruồi xanh cứ vo ve,
Trong cảnh thu mưa gió ông là một cái lá độc nhất.
Cứ suy nghĩ về việc chưa trở về kinh,
Nước mắt khi chết đã đọng nơi khoé mắt.
Căn nhà lớn mà tháo bỏ cột cao,
Thành dài lại dọn sạch các chốt canh.
Khi còn sống nắm quyền chỉ huy bằng cách vẫy quạt lông trắng,
Thế mà khi chết lại lênh đênh một cái hòm có khắc rồng giải là cỗ quan tài.
Nghĩ đến với lòng kính phục tư cách của vị anh hùng,
Trong giới các quan to có lòng thương xót.
Hào quang trong đám ba quân nay mờ nhạt,
Kẻ chết vì nước ôm mối đau buồn chất ngất.
Quan viết sử ắt có ngòi bút trung thực,
Hãy đem cái tráp đựng thư phỉ báng đó mà rửa sạch đi cho.
Trong ý tôi khóc cho nấm mồ cô quạnh,
Đang đi nơi vùng nam để đi về nhà mà thuyền bè bị cản trở.
Cứ luấn quấn mãi nên buồn rầu,
Chưa qua mà đã mất thuyền bè.
Ngơ ngác mệt mỏi là ai vậy,
Nước mắt tuôn nơi kẽm Ba Đông.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 25/02/2015 18:51
Quan tư đồ cuối đời Thiên Bảo,
Quân Tấn Dương trừ bạo bắc phương.
Thành ta ngựa Hồ phá tung,
Rầu rĩ ngoài mặt, trong lòng xốn xang.
Lòng người vững sánh ngang núi Thái,
Kế Bắc, bên hông phải cách ngăn.
Không khí phương bắc vùng lên,
Cơ nghiệp vua chúa dân đen thấy rồi.
Hai vua tới phía tây khóc nức,
Miếu thờ sao quá mức nát tan.
Hà Dương chưa hết loạn quân,
Tư Minh giả bộ gian ngoan xin hàng.
Từ Kiệt Thạch tai ương lại tới,
Khắp càn khôn lửa cháy ngất trời.
Lộc Sơn để lại tiếng cười,
Báo công ông lại có thời hiến dâng.
Nhờ công lao, phong vương họ khác,
Nghe tin, bọn rợ nhóc thất kinh.
Nơi Hà Biện đóng tinh binh,
Một vùng ngàn dặm, tình hình yên vui.
Vo ve cả đàn ruồi xanh nọ,
Một lá trong mưa gió mùa thu.
Nhà vua chưa trở lại triều,
Mà nước mắt chết có điều lao xao.
Mái nhà lớn, cột cao lại bỏ,
Bức thành dài mà phá chòi canh.
Khi sống quạt trắng tung hoành,
Đến khi nằm xuống lênh đênh quan tài.
Vẻ hào hiệp khiến người suy ngẫm,
Bao đau buồn trong đám quan to.
Toàn quân uy tín nay mờ,
Nỗi đau liệt sĩ lù lù đống cao.
Quan viết sử bằng vào ngọn bút,
Hãy đem mà rửa gột tráp hòm.
Tôi nay khóc nấm mộ tàn,
Đường về rẽ lối xuống nam kẹt thuyền.
Cứ luẩn quẩn dạ buồn mãi mãi,
Chưa qua, vượt không lợi, rõ ràng.
Ấy ai là kẻ long đong,
Kẽm Ba Đông, nước mắt ròng ròng sa.