Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Phiêu bạc tây nam (760-770)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 25/02/2015 15:53
司空出東夷,
童稚刷勁翮。
追隨燕薊兒,
穎脫物不隔。
服事哥舒翰,
意無流沙磧。
未甚拔行間,
犬戎大充斥。
短小精悍姿,
屹然強寇敵。
貫穿百萬眾,
出入由咫尺。
馬鞍懸將首,
甲外控鳴鏑。
洗劍青海水,
刻銘天山石。
九曲非外蕃,
其王轉深壁。
飛兔不近駕,
鷙鳥資遠擊。
曉達兵家流,
飽聞春秋癖。
胸襟日沈靜,
肅肅自有適。
潼關初潰散,
萬乘猶辟易。
偏裨無所施,
元帥見手格。
太子入朔方,
至尊狩梁益。
胡馬纏伊洛,
中原氣甚逆。
肅宗登寶位,
塞望勢敦迫。
公時徒步至,
請罪將厚責。
際會清河公,
間道傳玉冊。
天王拜跪畢,
讜議果冰釋。
翠華卷飛雪,
熊虎亙阡陌。
屯兵鳳凰山,
帳殿涇渭闢。
金城賊咽喉,
詔鎮雄所搤。
禁暴靜無雙,
爽氣春淅瀝。
巷有從公歌,
野多青青麥。
及夫哭廟後,
復領太原役。
恐懼祿位高,
悵望王土窄。
不得見清時,
嗚呼就窀穸。
永系五湖舟,
悲甚田橫客。
千秋汾晉間,
事與雲水白。
昔觀文苑傳,
豈述廉藺蹟。
嗟嗟鄧大夫,
士卒終倒戟。
Tư không xuất đông di,
Đồng trĩ xoát kính cách.
Truy tuỳ Yên, Kế nhi,
Dĩnh thoát vật bất cách.
Phục sự Kha Thư Hàn,
Ý vô lưu sa thích.
Vị thậm bạt hàng gian,
Khuyển Nhung đại sung xích.
Đoản tiểu tinh hãn tư,
Ngật nhiên cường khấu địch.
Quán xuyên bách vạn chúng,
Xuất nhập do chỉ xích.
Mã an huyền tướng thủ,
Giáp ngoại khống minh đích.
Tẩy kiếm Thanh Hải thuỷ,
Khắc minh Thiên Sơn thạch.
Cửu khúc phi ngoại Phồn,
Kỳ vương chuyển thâm bích.
Phi thố bất cận giá,
Chí điểu tư viễn kích.
Hiểu đạt binh gia lưu,
Bão văn Xuân Thu phích.
Hung khâm nhật trầm tĩnh,
Túc túc tự hữu thích.
Đồng Quan sơ hội tán,
Vạn thặng do tích dịch.
Thiên bì vô sở thi,
Nguyên suý kiến thủ cách.
Thái tử nhập sóc phương,
Chí tôn thú Lương, Ích.
Hồ mã triền Y, Lạc,
Trung nguyên khí thậm nghịch.
Túc Tông đăng bảo vị,
Tái vọng thế đôn bách.
Công thời đồ bộ chí,
Thỉnh tội tương hậu trách.
Tế hội Thanh Hà công,
Gián đạo truyền ngọc sách.
Thiên vương bái quỵ tất,
Đảng nghị quả băng thích.
Thuý hoa quyển phi tuyết,
Hùng hổ cắng thiên mạch.
Đồn binh Phụng Hoàng sơn,
Trướng điện Kinh Vị tích.
Kim Thành tặc yết hầu,
Chiếu trấn hùng sở ách.
Cấm bạo tĩnh vô song,
Sảng khí xuân tích lịch.
Hạng hữu “Tòng công ca”,
Dã đa thanh thanh mạch.
Cập phu khốc miếu hậu,
Phục lĩnh Thái Nguyên dịch.
Khủng cụ lộc vị cao,
Trướng vọng vương thổ trách.
Bất đắc kiến thanh thời,
Ô hô tựu truân tịch.
Vĩnh hệ Ngũ Hồ chu,
Bi thậm Điền Hoành khách.
Thiên thu Phần Tấn gian,
Sự dữ vân thuỷ bạch.
Tích quan văn uyển truyện,
Khởi thuật Liêm, Lạn tích.
Ta ta Đặng đại phu,
Sĩ tốt chung đảo kích.
Quan tư không xuất thân vùng phía đông chưa khai hoá,
Từ thuở nhỏ đã tỏ ra có bộ vó rồi.
Cùng với giới trẻ vùng Yên, Kế châu trau dồi,
Cái mũi nhọn đó không có vật nào ngăn cách nó được.
Làm việc dưới trướng Kha Thư Hàn,
Ý không phải là ở mãi vùng sa mạc.
Trong hàng quân chưa lâu,
Rợ Khuyển Nhung mở trận đánh phá lớn.
Tuy binh ít và kém, nhưng thái độ chiến đấu hăng,
Anh dũng chống cự lại bọn địch mạnh.
Cai quản hàng trăm vạn người,
Ra vào chỉ trong gang tấc.
Yên ngựa treo đầu tướng giặc,
Bên ngoài áo giáp của ông tên nhọn găm đầy.
Lấy nước hồ Thanh Hải để rửa gươm vấy máu,
Khắc ghi có đá núi Thiên Sơn.
Đầu sông Hoàng Hà nào phải vùng đất ngoài của dân Thổ Phồn đâu,
Mà sao vua của họ lại chuyển thành nơi phòng vệ kỹ thế.
Loại ngựa tốt không dùng để cưỡi đi loanh quanh,
Sức con chim ó quen theo thói đánh từ xa.
Hiểu rõ được thuật của nhà quân sự,
Lại thêm thường nghe đến lòng ham thích kinh Xuân Thu.
Hàng ngày trong lòng giữ được vẻ trầm tĩnh,
Cứ chăm chắm theo mục tiêu đã định.
Trận Đồng Quan mới ra quân đã tan vỡ,
Vua cũng lo trốn chạy.
Các tì tướng không biết xử sự ra sao,
Vị chỉ huy trưởng cứ múa may thế thôi.
Thái tử chạy về phía bắc,
Vua đi tuần du vùng Lương và Ích.
Ngựa giặc Hồ vây kín vùng hai sông Y và sông Lạc,
Không khí vùng trung nguyên là phản loạn.
Túc Tông bước lên ngôi báu.
Nhìn về biên giới tình thế càng thêm quẫn bách.
Ông Vương Tư Lễ đi bộ mà tới,
Vì bị trách thua trận Đồng Quan, nên giờ xin lấy công chuộc tội.
May có được Thanh Hà công,
Theo sắc vua vội về triều kiến.
Phủ phục quỳ lạy vua,
Lời nói chân thật khiến vấn đề được giải quyết.
Cờ vua cuốn bay trong tuyết,
Gấu với hổ lũ lượt khắp các nẻo đường.
Đóng quân nơi núi Phượng Hoàng,
Xây dựng cung điện tạm trong vùng hai sông Kinh và Vị.
Kim Thành là cổ họng của bọn giặc,
Chiếu vua đã nói rõ phải giữ vững điểm chốt này.
Chốn này nay được yên lành hơn bao giờ hết,
Không khí vui tươi, mùa xuân mưa rơi rả rích.
Trong ngõ vang bài ca “Theo ông”,
Ngoài đồng, lúa xanh xanh tươi tốt.
Vào cái lúc sau khi khóc tại miếu thờ,
Ông lại được bổ nhiệm về phục dịch ở Thái Nguyên.
Vẫn thường lo sợ ở vào địa vị cao, bổng lộc nhiều,
Lo lắng coi sóc cái vùng đất hẹp này của nhà vua.
Ông đã không được thấy cái lúc thanh bình,
Ôi thôi rồi ông đi xuống dạ đài.
Con thuyền mãi mãi còn cột tại Ngũ Hồ,
Những người khách của Điền Hoành cảm thấy đau buồn lắm.
Ngàn năm nơi vùng Phần thuộc đất Tấn,
Sự việc cùng với mây nước trắng mãi.
Ngày trước tôi đọc nhởng truyện trong các tập văn,
Tôi thấy không cần kể tích Liêm Pha với Lạn Tương Như làm gì.
Thương thay cho quan đại phu họ Đặng,
Cuối cùng bị binh lính làm loạn giết chết.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 25/02/2015 15:53
Tư không gốc miền đông xa lắc,
Thuở thiếu thời đã đặc biệt rồi.
Trai Yên, Kế thường theo đòi,
Vật nào che nổi mũi dùi nhọn kia.
Theo Kha Thư ông ra làm việc,
Ý nào mong sa mạc vùi thân.
Chưa lâu ở trong hàng quân,
Rợ Khuyển, Nhung đã lấn tràn biên cương.
Tuy gian nan, kiên cường ý chí,
Rất hiên ngang bọn phỉ ngăn ngừa.
Giữa vạn người, quyết xông pha,
Đường tơ kẽ tóc vào ra như thường.
Đầu tướng giặc treo ngang yên ngựa,
Áo giáp ngoài tua tủa tên găm.
Nước Thanh Hải đem rửa gươm,
Ghi công có đá Thiên Sơn khắc bền.
Chín khúc, đất của Phiên đâu phải,
Mà vua chúng cứ tới đóng đồn.
Ngựa hay không cưỡi đường gần,
Đội lính dũng mãnh rất cần đánh xa.
Sớm am hiểu binh gia chiến lược,
Nghe nói thường ôm cục Xuân Thu.
Trong lòng ngày vẫn tỉnh khô,
Chăm chăm chờ đợi thời cơ chín mùi.
Chốn Đồng Quan cái hồi tan vỡ,
Xe nhà vua cũng đã bỏ đi.
Phụ tá không biết làm gì,
Tay không đánh giặc, chỉ huy lo lường.
Thái tử lên bắc phương cự địch,
Vua cha tuần thú Ích, Lương châu.
Bao vây Y, Lạc: ngựa Hồ,
Không khí tán loạn bụi mù trung nguyên.
Túc Tông vội leo lên ngôi báu,
Chốn biên thuỳ nhộn nhạo lâm nguy.
Ông liền cất bộ tới ngay,
Lập công chuộc lỗi nặng ngày thua xưa.
May gặp ngài Thanh Hà giúp đỡ,
Có chiếu vua gọi trở về triều.
Trước vua bái gục cả đầu,
Lời nói thành thật được tâu dãi bày.
Cờ hoa cuốn, tuyết bay phần phật,
Gấu với hổ kéo chật nẻo đường.
Đóng quân tại núi Phượng Hoàng,
Kinh, Vị dựng điện tạm trương bức màn.
Chặn Kim Thành nhằm ngăn họng giặc,
Giữ vững thành, theo sắc vua ra.
Bạo loạn vắng, khác xưa xa,
Bầu trời tươi mát chan hoà sắc xuân.
Các ngả đường theo chân ông tới,
Nơi ruộng đồng phơi phới lúa xanh.
Ôi thôi sau khi công thành,
Thái Nguyên chốn cũ lại dành riêng ai.
Những e sợ cao ngôi bổng lộc,
Đất vua những thao thức trông coi.
Lúc thanh bình, chẳng thấy rồi,
Than ôi thôi xuống dạ đài mới yên.
Nơi Ngũ Hồ, con thuyền cột mãi,
Khách Điền Hoành ôm mối sầu than.
Ngàn năm đất Tấn, sông Phần,
Nước mây trong trắng, việc còn ghi đây.
Xưa vườn văn mê say đọc kỹ,
Chuyện Liêm, Lạn há kể vào đâu.
Thương cho quan Đặng đại phu,
Chung cuộc binh lính quay đầu dáo đâm.