第五弟豐獨在江左近三四載寂無消息,覓使寄此其二

聞汝依山寺,
杭州定越州。
風塵淹別日,
江漢失清秋。
影著啼猿樹,
魂飄結蜃樓。
明年下春水,
東盡白雲求。

 

Đệ ngũ đệ Phong độc tại Giang Tả cận tam tứ tải tịch vô tiêu tức, mịch sứ ký thử kỳ 2

Văn nhữ y sơn tự,
Hàng châu định Việt châu.
Phong trần yêm biệt nhật,
Giang Hán thất thanh thu.
Ảnh trước đề viên thụ,
Hồn phiêu kết thận lâu.
Minh niên há xuân thuỷ,
Đông tận bạch vân cầu.

 

Dịch nghĩa

Nghe nói em quy y nơi chùa trên núi,
Vậy là ở Hàng châu hay Việt Châu?
Gió bụi xa cách đã lâu,
Kẻ Giang người Hán không còn các mùa thu trong sáng.
Trước mắt là hình ảnh con vượn hú trên cây,
Hồn ta mơ màng em nơi căn gác trong ảo giác.
Sang năm vào mùa xuân, anh sẽ xuống thuyền,
Đi về phía đông tìm em tận chân trời mây trắng.


(Năm 767)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Nghe em quy y chùa bên đó
Ở Hàng Châu hay ở Việt Châu?
Cách chia gió bụi đã lâu
Kẻ Giang người Hán còn đâu thu vàng
Trước mắt vượn hú vang cây nọ
Hồn ta mơ lầu ảo phương xa
Sang năm xuân nước chan hoà
Hướng đông mây trắng thuyền ta kiếm tìm

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Nghe em vào chùa ở,
Hàng Châu hay Việt Châu.
Gió bụi ngăn cách mãi,
Sông nước biết bao thu.
Bóng cây, vượn hốt hoảng,
Lầu cao, hồn âm u.
Sang năm nước xuân lớn,
Đông kiếm chốn mây mù.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời